Theo ông Bình, chương trình môn Lịch sử cấp THCS, nhìn chung khá nặng so với lứa tuổi học sinh ở bậc học này. Ở lứa tuổi các em, tâm - sinh lý còn chưa phát triển ổn định, vững vàng, sự nhận thức còn non nớt, cảm tính, tiếp nhận kiến thức chưa phải ở mức độ lý tính, có chiều sâu... nhưng một khối lượng kiến thức gần như của cả THPT trước đây được “dồn nén” vào THCS.
Nội dung kiến thức khá nặng nề, nhất là ở lớp 9. “Khi chúng tôi viết sách giáo khoa Lịch sử lớp 9, toàn bộ phần Lịch sử thế giới từ năm 2018 và 20 năm đầu của thế kỷ 21 được đưa vào lớp 9. Hầu như các tác giả dễ dàng nhận thấy điều này. Nhiều người còn so sánh với chương trình Lịch sử lớp 10, lớp 11 (phần chủ đề đã sửa đổi), nội dung kiến trúc chương trình Lịch sử lớp 9 có cảm giác nặng hơn”, ông Bình nói.
Bên cạnh đó, theo ông Bình, có những nội dung kiến thức thừa, bị lặp trong chương trình ở các lớp. Ví dụ, ở chương trình Lịch sử lớp 7, trong phần thông sử có đề cập đến các cuộc phát kiến địa lí, sau đó lại được đề cập trong phần chủ đề (tất nhiên có đi sâu hơn một chút để đảm bảo yêu cầu tích hợp với phân môn Địa lí).
Hay phần chủ đề chung lớp 8 và lớp 9: “Bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông” với yêu cầu cần đạt về quá trình xác lập chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trong lịch sử.
Những chứng cứ lịch sử xác lập chủ quyền ở 2 khối lớp không phân biệt được rạch ròi. Thậm chí, các tác giả viết sách giáo khoa rất khó khăn trong xử lí, làm rõ sự khác biệt yêu cầu này ở 2 khối lớp”, ông Bình nói.
Ngoài ra, ông Bình cho rằng một số yêu cầu cần đạt quá khó đối với lứa tuổi học sinh THCS, hoặc chưa chuẩn gây tranh cãi.
Ví dụ: Mô tả và giải thích được sự phân hoá không triệt để của xã hội nguyên thuỷ ở phương Đông, đối với học sinh lớp 6 – đầu cấp yêu cầu này quá cao và khó.
Có những yêu cầu cần đạt mà các tác giả viết sách khó thực hiện và nếu thực hiện sẽ gây tranh cãi. Ví dụ nêu được phạm vi không gian của nước Văn Lang, Âu Lạc, Phù Nam trên bản đồ hoặc lược đồ rất khó, không thể làm.
Cũng theo ông Bình, có những từ khoá trong yêu cầu cần đạt nêu ra vừa khó vừa không thực hiện được như “đánh giá vai trò của các nhân vật lịch sử”. Nêu được vai trò đã tốt rồi, còn đánh giá nó là việc cực kỳ khó. Hoặc “nêu được diễn biến chính trị, kinh tế, văn hoá ở vùng đất phía Nam”... Có những yêu cầu cần đạt quá chung chung làm cho các tác giả của mỗi bộ sách hiểu cái cụ thể trong cái chung chung ấy khác nhau. Ví dụ, “Châu Á từ năm 1918 đến năm 1945” nhưng lại không có sự gợi ý nói gì điều gì ở Châu Á, tối thiểu cần đề cập đến nước nào…
Những bài đầu (về những vấn đề chung, có tính lý luận) ở lớp 10 mới và khó, thậm chí không ít giáo viên chưa được đào tạo đầy đủ và kỹ lưỡng về những kiến thức này ở các trường đại học sư phạm. Nhiều nội dung mới và khó chưa được một số cơ sở đào tạo cập nhật như Lịch sử nghệ thuật truyền thống Việt Nam, các cuộc cách mạng công nghiệp trong Lịch sử thế giới, đặc biết là cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0...
Do đó, ông Bình kiến nghị, sớm phát triển, chỉnh sửa chương trình phù hợp hơn.
Kiến nghị có thêm phần tự luận trong đề thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử
Thầy Trần Trung Hiếu, giáo viên Trường THPT Chuyên Phan Bội Châu (Nghệ An), thẳng thắn nói về vấn đề dạy học tích hợp đối với môn Lịch sử và Địa lý ở chương trình phổ thông mới.
“Đây là một vấn đề rất bất cập, đặc biệt ở bậc THCS. Ở đây có những thầy cô giáo hoặc hiệu trưởng từng dạy Lịch sử hiểu rất rõ vấn đề này”, thầy Hiếu nói. Giáo viên bày tỏ mong muốn Bộ GD-ĐT tách 2 môn học này ra để việc dạy học được hiệu quả.
“Dạy học tích hợp là tốt, tức là vận dụng kiến thức liên để dạy lịch sử hay hơn, chứ không phải dạy theo kiểu mà chúng ta đang triển khai ở bậc THCS”.
Ngoài ra, góp ý về phương án thi tốt nghiệp THPT với môn Lịch sử, thầy Hiếu nói: “Với phương thức thi trắc nghiệm, bên cạnh những mặt tích cực, cũng nảy sinh những yếu tố có thể nói đánh giá chưa hết được học sinh, đặc biệt trong phân loại học sinh khá và giỏi.
Chúng ta phải thừa nhận một thực tế rằng những sinh viên được học và thi với hình thức trắc nghiệm, chất lượng không tốt bằng những thế hệ sinh viên trải qua kỳ thi tự luận trước đây.
Do đó, tôi đề nghị phương án thi tốt nghiệp THPT Bộ GD-ĐT đang xây dựng dự thảo cần phân bổ trắc nghiệm 70%, tự luận 30%, thay vì trắc nghiệm hoàn toàn như hiện nay. Việc điều chỉnh này sẽ đánh giá chính xác hơn chất lượng của học sinh ở bậc phổ thông và sinh viên trong quá trình đào tạo đại học”.
Góp ý về đổi mới thi cử, thầy Lê Đình Hiển, giáo viên Trường Tiểu học, THCS và THPT Đông Bắc Ga (Thanh Hóa), đề xuất đưa môn Lịch sử thành môn bắt buộc trong kì thi tốt nghiệp THPT.
“Nếu Lịch sử là môn học bắt buộc nhưng không đưa vào nội dung thi, giáo viên sẽ thiếu động lực, học sinh thiếu hào hứng, học đối phó và như vậy, chất lượng môn học sẽ khó được nâng lên”, thầy Hiển nói.
PGS.TS Nguyễn Văn Trào, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, cho hay hội thảo là diễn đàn để các chuyên gia, nhà nghiên cứu, giảng viên, thầy cô giáo dạy Lịch sử trên cả nước đánh giá những điểm tích cực, hạn chế và khó khăn trong việc triển khai dạy và học Chương trình môn Lịch sử mới; cũng như chia sẻ các vấn đề quan tâm khi triển khai thực hiện chương trình, SGK mới môn học này.
Từ đó, kiến nghị những biện pháp cụ thể nhằm đổi mới cách tiếp cận nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Lịch sử trong bối cảnh hiện nay.
Giám đốc tuyển sinh Trường ĐH Công Thương TP.HCM cho biết thêm chưa kể những người làm lĩnh vực này được hưởng các phúc lợi như bảo hiểm cả gia đình, khám bệnh viện quốc tế, đi du lịch nước ngoài...
Lý do thứ hai theo ông Sơn, hiện các ngành liên quan đến công nghệ thông tin đang có nhu cầu tuyển dụng cao tại các công ty công nghệ lớn trong nước cũng như công ty nước ngoài.
Thứ ba, kỹ sư ngành Công nghệ thông tin có thể làm việc ở mọi công ty vì hiện nay rất nhiều vấn đề cần phải có công nghệ thông tin để vận hành. Tuy nhiên theo ông Sơn ngành Công nghệ thông tin có "tuổi thọ nghề" ít hơn các ngành khác. Kỹ sư công nghệ thông tin chỉ làm tới 45 - 50 tuổi có thể hết ý tưởng, nếu không vươn lên làm chủ các doanh nghiệp hay làm lãnh đạo các công ty sẽ bị đào thải.
Dù vậy nhiều người vẫn chọn ngành Công nghệ thông tin vì mức lương cao hiện tại quá hấp dẫn. Ông Sơn cũng cảnh báo, việc chọn ngành theo thời thượng bên cạnh chú trọng học tập, rèn luyện còn cần kỹ năng giao tiếp tiếng Anh tốt.
Ông Phùng Quán, chuyên gia Tư vấn tuyển sinh, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên TP.HCM, nhìn nhận ngành Khoa học máy tính các năm gần đây hot vì thứ nhất Khoa học máy tính là “chìa khóa” để bứt phá trong Cách mạng công nghiệp 4.0.
Đây là ngành học nghiên cứu cách ứng dụng của thuật toán trong chương trình máy tính. Bằng việc sử dụng nhiều thuật toán, toán học cao cấp, các nhà khoa học máy tính có thể tạo ra được cách mới để điều hành và truyền tải thông tin bao gồm nghiên cứu cấu trúc dữ liệu, cơ sở dữ liệu, kho dữ liệu, các thuật toán phân tích – xử lý - khai phá dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, IoT (Internet vạn vật) và các hệ thống dữ liệu lớn (Big Data) phục vụ mọi mặt của kinh tế- xã hội...
Mặt khác ngành học trang bị cho sinh viên kiến thức cơ bản và chuyên sâu trong lĩnh vực công nghệ thông tin như: Kiến trúc máy tính, hệ điều hành, ngôn ngữ lập trình phần mềm và phần cứng, trí tuệ nhân tạo, bảo mật và an toàn mạng, thiết kế và phát triển các ứng dụng đa nền tảng… Ngành Khoa học máy tính dành cho những bạn trẻ đam mê nghiên cứu chuyên sâu về công nghệ thông tin, khả năng tính toán của hệ thống máy tính.
Sinh viên tốt nghiệp ngành Khoa học máy tính có thể làm việc tại nhiều vị trí như: Chuyên viên phân tích, thiết kế về lĩnh vực công nghệ thông tin; chuyên viên xây dựng dự án, hoạch định chính sách phát triển các ứng dụng tin học; lập trình viên phát triển các phần mềm hệ thống tại các công ty trong lĩnh vực công nghệ thông tin của Việt Nam và nước ngoài.
Thứ hai, trong những năm gần đây làn sóng chuyển đối số toàn cầu, các đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam đến năm 2030, chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030, Chiến lược quốc gia về phát triển trí tuệ nhân tạo đến năm 2030, Nhu cầu nhân lực Khoa học máy tính cao từ thị trường Nhật Bản, Mỹ Châu Âu…
Ngay ở TP.HCM cũng đang thực hiện chương trình “Nghiên cứu và phát triển ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) giai đoạn 2020-2030”. Những điều đó là tiền đề thúc đẩy ngành Khoa học máy tính phát triển với tốc độ vũ bão và dẫn đầu về nhu cầu nguồn nhân lực.
Cuối cùng, theo một số báo cáo mức lương trung bình của các chuyên gia khoa học máy tính là khoảng 90.000- 100.000 USD mỗi năm. Mức lương này có thể tăng lên đáng kể nếu có kinh nghiệm và chuyên môn cao.
Với tốc độ phát triển của ngành Khoa học máy tính, cơ hội nghề nghiệp và có mức lương tốt là rất tiềm năng. Nếu đang tìm kiếm một ngành học đầy thử thách và có tiềm năng phát triển cao, ngành Khoa học máy tính có thể là lựa chọn tốt cho thí sinh.
Sau đây là điểm chuẩn các ngành liên quan đến máy tính tại một số trường đại học năm 2023:
Trường ĐH Bách khoa TP.HCM | Khoa học máy tính mã 106 | 79,84 |
Kỹ thuật máy tính Mã 107 | 78,26 | |
Trường ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM | Khoa học máy tính chương trình tiên tiến | 28,05 |
Trí tuệ nhân tạo | 27 | |
Trường ĐH Công nghệ Thông tin | Khoa học máy tính | 26,9 |
Trí tuệ nhân tạo | 27,8 | |
ĐH Bách khoa Hà Nội | Khoa học máy tính | 29,42 |
Kỹ thuật máy tính | 28,29 | |
Khoa học dữ liệu và Trí tuệ nhân tạo | 28,8 |
Theo ông Sơn, trong phiên làm việc giữa Đoàn giám sát và Chính phủ cuối tháng 7, Bộ GD-ĐT cũng đã nêu một số ý kiến phân tích và kiến nghị về việc này.
“Dường như vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau về bản chất và vai trò của sách giáo khoa (SGK) trong hoạt động dạy và học theo chương trình mới. Nhà nước (Bộ GD-ĐT) nắm và trông coi chương trình thống nhất toàn quốc, đó là nội dung lõi của giáo dục, là pháp lệnh. SGK là học liệu, công cụ, hỗ trợ giáo viên để chuyển tải chương trình, thực hiện các yêu cầu môn học.
Chương trình là duy nhất, thống nhất, học liệu là đa dạng và linh hoạt, vậy có cần một bộ SGK - tức một bộ học liệu của nhà nước hay không? Trong số hàng trăm bài giảng trên truyền hình, giáo viên đã dạy theo chương trình với sự chuẩn bị riêng, không theo bất cứ bộ SGK nào. Vậy có cần Quốc hội phải thông qua việc giao Bộ GD-ĐT chuẩn bị nội dung cho một bộ học liệu hay không?
Cảm ơn Đoàn giám sát đã rất quan tâm tới một vấn đề nóng của giáo dục để hỗ trợ, nhưng cách quan tâm này liệu đã phù hợp với sách giáo khoa với tư cách tồn tại mới của chúng.
Điều này không phải vấn đề kỹ thuật hay vấn đề quản lý, liên quan tới tinh thần cốt lõi của đổi mới. Bộ GD-ĐT đang ra sức hướng dẫn, điều chỉnh, yêu cầu giáo viên thay đổi quan niệm về SGK, thay đổi cách mà giáo viên sử dụng sách và coi đó là trọng tâm của đổi mới phương pháp dạy học.
Việc này không chỉ ảnh hưởng lớn tới chủ trương xã hội hóa trong việc biên soạn và phát hành SGK, mà còn hệ trọng hơn nó có thể tác động tới tinh thần đổi mới mà toàn ngành đang hướng tới về mặt phương pháp”, ông Sơn nói.
Ông Sơn nói thêm nếu lo lắng về an toàn an ninh SGK điều này cũng không thành vấn đề vì NXB Giáo dục Việt Nam - doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, đang nắm bản quyền 2 bộ SGK. SGK cho các lớp 5-9-12 là những bộ sách cuối cùng cũng đã soạn xong và đang thẩm định...
“Điều này cũng rất khác với nội dung Nghị quyết số 122 năm 2020 cho phép Bộ GD-ĐT chỉ tổ chức biên soạn khi không có tổ chức và cá nhân nào biên soạn. Hiện nay, tất cả các môn học còn lại đều đã có một số sách được các tập thể và cá nhân biên soạn, vậy tổ chức chuẩn bị nội dung một bộ sách không giải quyết được mấy vấn đề”, ông Sơn nói.
Bộ trưởng GD-ĐT cũng kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ngoài Nghị quyết giám sát chuyên đề này, nên có nghị quyết riêng để thúc đẩy đổi mới giáo dục và cần có nhất lúc này là một nghị quyết giao cho Bộ GD-ĐT chuẩn bị và trình Chính phủ, trình Quốc hội các phương án tăng cường các điều kiện đảm bảo cho đổi mới Giáo dục, đặc biệt và quan trọng nhất làm sao cho đủ giáo viên, làm sao thu nhập đủ để giáo viên thực sự sống bằng nghề, thấy được động viên và tiếp tục phấn đấu đổi mới và tự đổi mới, hết lòng vì học trò, gánh vác tốt và yên tâm với công việc nặng nhọc nhiều áp lực.
Theo người đứng đầu ngành Giáo dục, nhân tố quyết định thành công đổi mới là yếu tố con người, là thầy cô giáo. Giới hạn của số lượng và chất lượng nhà giáo, giới hạn của năng lực và trình độ của nhà giáo là giới hạn của đổi mới và giới hạn chất lượng giáo dục.
Bên cạnh đó, cũng cần đủ trường lớp, trường lớp được kiên cố, khang trang, đủ nhà công vụ cho giáo viên vùng xa, đủ nhà vệ sinh cho trường học, đủ trang thiết bị cho giáo dục, đủ đầu tư tài chính cho các hoạt động...
"Nếu không có những cái tối thiểu đó, ngành Giáo dục, các nhà giáo có nỗ lực mấy cũng khó đạt được các kỳ vọng và mục tiêu lớn”, ông Sơn khẳng định.