Hiện tại, Nokia đang thực hiện một chiến lược mang tên U-turn với trọng tâm là phát triển một mẫu di động cảm ứng sử dụng hệ điều hành mã nguồn mở Android của Google dành riêng cho các thị trường đang phát triển. Dự kiến, mẫu “vũ khí mới” này của Nokia sẽ ra mắt người dùng vào tháng 9 năm nay tại Hội nghị các nhà phát triển toàn cầu của Nokia.
Đây được cho là con bài chiến lược của hãng sản xuất di động lớn nhất thế giới. Trong khi cứ 10 chiếc di động được bán ra trên khắp thế giới, có tới hơn 4 chiếc mang nhãn hiệu Nokia nhưng trong mảng sản phẩm có khả năng lướt web, tải và cài đặt ứng dụng của một bên thứ 3... Nokia lại đang tỏ ra hụt hơi trước các đối thủ.
Theo các lãnh đạo của Nokia, nền tảng di động Android sẽ ngày càng phổ biến với minh chứng là một loạt các hãng di động khác nhau dự tính ra mắt các mẫu sản phẩm sử dụng hệ điều hành này từ nay đến cuối năm 2009.
Các chuyên gia phân tích của HSBC cho biết, năm 2007 Nokia chiếm 47% thị phần của thị trường smartphone toàn cầu, năm 2008 họ chỉ còn 35% và dự kiến đến cuối năm nay chỉ còn chưa đến 31%.
" alt=""/>Nokia mang smartphone Android ra trậnTheo hãng tin CNN, đó chỉ là một vài cảnh tượng gây chú ý đang diễn ra ở nhiều quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Ở Sri Lanka và Pakistan, mọi người có thể cảm nhận rõ ràng về cuộc khủng hoảng. Sự tức giận của công chúng khiến hàng loạt bộ trưởng ở Colombo phải từ chức và góp phần làm ông Imran Khan phải từ chức thủ tướng ở Islamabad.
Cả hai nước đã buộc phải thực hiện các biện pháp quan trọng. Họ yêu cầu Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hỗ trợ, rút ngắn các tuần làm việc nhằm tiết kiệm năng lượng. Tuần trước, Thủ tướng Ranil Wickremesinghe nói, nền kinh tế Sri Lanka đã "sụp đổ hoàn toàn".
Tại những nơi khác trong vùng, các dấu hiệu rắc rối có thể biểu hiện không rõ bằng nhưng vẫn có thể gây ra các hậu quả lớn. Ngay cả ở những quốc gia tương đối giàu có, như Australia, những lo ngại về kinh tế bắt đầu xuất hiện khi người tiêu dùng cảm thấy sức ép từ các hóa đơn năng lượng cao hơn.
Giá điện bán buôn trong quý đầu năm 2022 tăng 141% so với năm ngoái. Các hộ gia đình đang bị thúc giục cắt giảm lượng sử dụng. Hôm 15/6, lần đầu tiên Chính phủ Australia đã đình chỉ vô thời hạn thị trường điện quốc gia nhằm hạ giá năng lượng, giảm bớt sức ép với các chuỗi cung ứng năng lượng và ngăn chặn tình trạng mất điện.
Tuy nhiên, những gì mà Ấn Độ trải qua (nhu cầu về điện trong thời gian gần đây ở nước này đã cao kỷ lục) đã chứng tỏ đó là một cuộc khủng hoảng có tính toàn cầu. Do bị mất điện trên diện rộng giữa lúc nhiệt độ cao kỷ lục, cuối tháng 5, công ty Coal India lần đầu tiên phải nhập khẩu than kể từ năm 2015.
Nguyên nhân khủng hoảng năng lượng
Dù khó khăn ở mỗi nước là khác nhau, nhưng tất cả đều bị ảnh hưởng bởi tác động kép của đại dịch Covid-19 và cuộc xung đột ở Ukraine. Hai sự kiện này đã khơi lại những giả định hợp lý trước đây về tuyến cung cấp và an ninh khu vực, đẩy các kế hoạch kinh tế vào hỗn loạn.
Theo các chuyên gia, gốc rễ của vấn đề nằm ở sự không phù hợp ngày càng tăng giữa cung và cầu.
Trong vài năm qua, đại dịch đã khiến nhu cầu về năng lượng xuống thấp bất thường, với lượng tiêu thụ điện năng toàn cầu giảm hơn 3% trong quý đầu năm 2020 vì phong tỏa và các biện pháp hạn chế khác đã giữ chân người lao động ở nhà, xe cộ không lưu thông trên đường và các con tàu mắc kẹt ở cảng. Song, hiện giờ, khi các nước bắt đầu đẩy lùi đại dịch, nhu cầu về năng lượng đã tăng và sự cạnh tranh bất ngờ đã đẩy giá than, dầu và khí lên mức cao kỷ lục.
Xu hướng này đã bị đẩy nhanh hơn do chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga ở Ukraine. Trong khi Mỹ và nhiều nước đồng minh của họ trừng phạt dầu và khí của Nga, nhiều nước phải cạnh tranh để tìm các nguồn cung cấp thay thế.
Tại sao khủng hoảng lại xảy ra ở châu Á?
Trong bối cảnh giá năng lượng nhập khẩu tăng đột biến trên toàn thế giới, với giá than quốc tế cao gấp 5 lần so với một năm trước đây và giá khí đốt tự nhiên cao gấp 10 lần, các chuyên gia cho rằng có một số lý do khiến các nền kinh tế ở châu Á, đặc biệt là những nơi phụ thuộc vào nhập khẩu, đang phát triển, bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
"Nếu là một quốc gia có nền kinh tế mới nổi như Sri Lanka phải mua dầu, khí đốt thì đó là một cuộc vật lộn thực sự. Họ sẽ phải trả nhiều tiền hơn cho thứ mình cần trong khi những thứ bán đi lại không tăng giá. Vì thế, quốc gia đó phải bỏ ra nhiều tiền hơn để cố gắng mua những thứ tương tự nhằm giúp nền kinh tế duy trì hoạt động", Mark Zandi, chuyên gia kinh tế trưởng của Moody's Analytics cho biết.
Antoine Halff, phụ tá học giả nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Chính sách năng lượng toàn cầu thuộc Đại học Columbia cho biết, các nước nghèo hơn vẫn đang phát triển hoặc mới công nghiệp hóa sẽ ít có khả năng cạnh tranh so với những đối thủ có nhiều tiền và họ có nhu cầu nhập khẩu càng nhiều thì vấn đề gặp phải sẽ càng lớn.
"Pakistan là một ví dụ. Họ đang chịu tác động của giá cả lẫn nguồn cung. Họ phải trả nhiều tiền hơn cho nguồn cung năng lượng và thực sự gặp khó khăn trong việc tìm nguồn cung", Antoine Halff nói.
Hoài Linh
" alt=""/>Nguồn gốc cuộc khủng hoảng năng lượng ở châu Á![]() |
Đệ nhất phu nhân ít khi nở nụ cười khi đứng cạnh chồng |
Bennett đã viết cuốn sách với mong muốn đưa ra một cái nhìn mới về những gì diễn ra “phía sau màn ảnh” trong cuộc đời của Đệ nhất phu nhân Mỹ. “Giữ một nụ cười trên môi chỉ để tạo hiệu ứng không phải là một việc mà bà Melania sẽ làm. Bà ấy không phải người giả tạo – từ trước đã không, trong chiến dịch tranh cử cũng không, và với tư cách Đệ nhất phu nhân cũng không”.
![]() |
Bà Melania Trump rất ít khi cười... |
Trong cuốn sách được phát hành vào ngày 3/12 vừa qua, tác giả này cho biết thêm: “Rất nhiều người hỏi tôi, ‘Bà ấy làm sao vậy? Sao trông bà ấy giận dữ vậy?' khi họ nhìn thấy bà ấy không cười, đứng cạnh Trump khi ông ấy dừng lại để nói chuyện với phóng viên trên đường ra trực thăng. Thứ mà hầu hết mọi người không hiểu là gốc gác của bà Melania, và đất nước nơi bà ấy sinh ra. Ở Slovenia, những nụ cười không thành thật không thật sự tồn tại”.
Bennett viết tiếp: “Mặc dù những nụ cười của bà ấy xuất hiện ít hơn những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt các đứa con của bà vào ngày tháng 6 đó tại toà Trump Tower, song điều đó không có nghĩa là Melania không vui. Chỉ đơn giản là, bà ấy đang làm những gì bà ấy cảm thấy tự nhiên nhất, như bà ấy vẫn thường làm”.
![]() |
...và thường có biểu cảm lạnh lùng, bí ẩn |
Bà Melania Trump, 49 tuổi, là một trong những đệ nhất phu nhân kín tiếng nhất trong lịch sử Mỹ.
Anh Thư
" alt=""/>Giải mã lý do vợ ông Trump rất ít khi cườiAnthony Blunt sinh ra trong một gia đình danh giá ở Bournemouth, miền Nam nước Anh. Mẹ ông là em Bá tước Strathmore – bố vợ của Vua George VI. Sau khi Vua George VI qua đời năm 1952, công chúa Elizabeth lên kế vị thì quan hệ của Blunt với Nữ hoàng Anh càng gần gũi hơn. Năm 1956, Anthony Blunt được phong tước Hiệp sĩ.
Với năng khiếu toán học và hội họa, năm 19 tuổi, Blunt được vào thẳng Đại học Cambridge danh giá. Tốt nghiệp với thành tích xuất sắc, ông được giữ lại trường giảng dạy và nghiên cứu. Tại đây, Blunt gia nhập một hội kín gồm những người trẻ tuổi có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản. Tình báo Liên Xô đã tìm cách tuyển mộ những thanh niên này để chờ cơ hội “đánh” vào các cơ quan đầu não của Anh.
![]() |
Anthony Blunt. Ảnh: Radiotimes |
Năm 1933, sau một chuyến thăm Liên Xô với những ấn tượng mạnh mẽ về đất nước, con người Xô-viết, Anthony Blunt có ý định gia nhập Đảng Cộng sản Anh. Tuy nhiên, Guy Burges – một học trò của ông (sau này cũng thuộc nhóm điệp viên Cambridge) khuyên ông nên cộng tác với NKVD – cơ quan tiền thân của KGB để đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp chung.
Ban đầu, Blunt có nhiệm vụ lựa chọn những sinh viên ưu tú có xu hướng thân cộng sản, tiềm năng nhất để báo cáo với NKVD tổ chức tiếp cận và tuyển mộ. Trong số những người Blunt trực tiếp tuyển mộ có John Cairncross sau trở thành thành viên trong nhóm Cambridge, người cung cấp nhiều thông tin quý giá giúp Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử sớm hơn dự kiến.
Chiến tranh Thế giới thứ II bắt đầu, học viên tốt nghiệp Học viện Tình báo Anthony Blunt được điều sang làm việc tại Cơ quan An ninh Anh (MI-5). Tại đây, Blunt trực tiếp tham gia chiến dịch Ultra – chiến dịch giải mã bộ khóa mật mã Enigma của Đức quốc xã, nên có điều kiện tiếp cận những tài liệu thông tin bí mật nhất và chuyển cho phía Liên Xô.
Blunt đã cung cấp cho NKVD khối lượng lớn tài liệu có giá trị về cơ cấu nhân sự của MI-5, danh sách các điệp viên Liên Xô đang hoạt động tại London bị MI-5 phát hiện và theo dõi, về các cơ sở đóng quân của quân đội Anh, các điệp viên Đức cài cắm trên lãnh thổ Liên Xô và bố trí lực lượng của Đức trên mặt trận phía Đông.
Cũng chính ông đã sớm cung cấp thông tin cho Liên Xô về những thỏa thuận riêng rẽ giữa Mỹ - Anh với Đức, tạo lợi thế rất lớn cho Liên Xô trong quá trình đàm phán với Anh - Mỹ khi sắp kết thúc chiến tranh.
Sau chiến tranh, Anthony Blunt trở thành cố vấn cho Vua George VI, sau đó là Nữ hoàng Elizabeth và là Tổng quản kho sưu tập các tác phẩm nghệ thuật của Hoàng gia Anh. Ở vị trí này, ông có quan hệ rộng rãi với các thành viên chính phủ Anh và tiếp tục cung cấp cho NKVD, sau đó là KGB nhiều tin tức có giá trị.
Năm 1951, khi phát hiện bị bại lộ, hai thành viên của nhóm Cambridge là Guy Burgess và Donald Mclean đã đào tẩu sang Liên Xô. Vụ việc này khiến cơ quan an ninh Anh bắt đầu để ý đến Anthony Blunt vì mối quan hệ sâu sắc giữa ông với Burgess, song không tìm được bằng chứng cụ thể. Năm 1964, Michael Straight, người mà Blunt từng tuyển mộ không thành từ khi còn ở Đại học Cambridge, báo cho MI-5 những chi tiết về ông.
Lần này, trước những bằng chứng không thể chối cãi, Blunt buộc phải thừa nhận quá trình cộng tác với KGB để đổi lại lời cam kết sẽ không bị truy tố và giữ kín mọi chuyện. Từ sau đó, Blunt đoạn tuyệt với công việc tình báo và chuyên tâm vào lĩnh vực hội họa cổ điển châu Âu. Ngày 21/11/1979, Thủ tướng Anh Margaret Thatcher bất ngờ công bố trước Hạ viện Anh về những việc làm của Anthony Blunt, nhưng tuyên bố không có ý định truy cứu ông. Tháng 7/2009, 26 năm sau khi Blunt mất, cuốn hồi ký của ông đến hạn công bố.
Trong hồi ký, Blunt đề cập đến quá trình được KGB tuyển mộ cùng một số quan hệ cá nhân, song chi tiết về hoạt động tình báo không được nhắc đến – kể cả tên tuổi cán bộ KGB đã tuyển mộ ông và điệp viên do ông tuyển mộ. Một lần nữa, người ta lại phải tiếp tục suy đoán về ông – một điệp viên Cambridge của KGB, một thành viên Hoàng gia Anh và một học giả uyên bác.
Nguyên Phong
" alt=""/>Chân dung điệp viên Liên Xô được Anh phong hiệp sĩ