Trình độ tiếng Anh của người Việt sẽ có cơ hội cải thiện mạnh hơn với chủ trương "từng bước đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học". Quyết định này của Bộ Chính trị có thể dẫn tới những chính sách mới về ngôn ngữ để Việt Nam hội nhập sâu hơn và phát triển mạnh hơn.
Chính sách ngôn ngữ của một quốc gia, bao gồm chính sách ngoại ngữ, là một lựa chọn quan trọng, liên quan tới định hướng phát triển, cơ hội kinh tế, bản sắc văn hóa, cũng như sự thành công của nền giáo dục. Có các trường hợp thành công và thất bại ở mức độ khác nhau ở các quốc gia mà Việt Nam có thể tham khảo.
Nhóm quốc gia được coi là "bản ngữ tiếng Anh" như Anh, Mỹ, Australia, Canada, New Zealand, Ireland... vẫn có những cộng đồng ngôn ngữ thiểu số khác tiếng Anh, hoặc cộng đồng người nhập cư, nên cách dạy tiếng Anh của họ với đối tượng này chủ yếu chuẩn bị cho quá trình đồng hóa vào ngôn ngữ Anh như ngôn ngữ chính thức hoặc ngôn ngữ chính. Ngoại lệ là Canada, nơi chính phủ có chính sách phát triển song ngữ Anh - Pháp một cách cân bằng hơn: các bang tiếng Anh sẽ giảng dạy thêm tiếng Pháp và các bang tiếng Pháp (như Quebec) sẽ giảng dạy thêm tiếng Anh. Rất nhiều quốc gia nằm trong nhóm "song ngữ" ngày nay có lịch sử phát triển gắn liền với sức ảnh hưởng toàn cầu của đế chế Anh hoặc Mỹ trong quá khứ, bao gồm cả các thuộc địa của Anh, do vậy về mặt lịch sử, họ đã sử dụng tiếng Anh tự nhiên như một di sản ngôn ngữ của cộng đồng mình.
Các nước gần Việt Nam như Singapore, Malaysia, Philippines, Ấn Độ, lãnh thổ Hong Kong... đều là những nơi người dân thành thạo tiếng Anh ở mức cao. Mô hình này giống với thực tế Việt Nam - nằm trong cộng đồng Pháp ngữ (Francophone), từng có một thế hệ thành thạo tiếng Pháp.
Người dân ở nhiều nước châu Âu như Thụy Điển, Hà Lan... rất thành thạo tiếng Anh, có thể coi đạt trình độ song ngữ (cân bằng giữa hai ngôn ngữ).
Có nhiều cách để tiếp cận tiếng Anh trong chính sách ngôn ngữ, ngoại ngữ. Có quốc gia chọn tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức, có quốc gia chọn song ngữ, có quốc gia chọn tiếng Anh là ngôn ngữ để giảng dạy chương trình phổ thông, có quốc gia chọn tiếng Anh để dạy như một môn học (ngoại ngữ).
Singapore từ khi lập quốc đã chọn tiếng Anh như một ngôn ngữ trung gian (lingua franca) giữa các cộng đồng gốc Hoa, gốc Malaysia và gốc Ấn. Học sinh Singapore ngày nay học bằng tiếng Anh, thi O level(tương đương GCSE của Anh) và kết thúc chương trình phổ thông với kỳ thi A level giống học sinh tại Anh.
Singapore là trường hợp thành công trong việc sử dụng tiếng Anh làm công cụ vươn ra thế giới, trở thành thành phố toàn cầu, theo đó rất nhiều tập đoàn đa quốc gia chọn Singapore để đặt văn phòng tại khu vực châu Á. Sự thành công và thịnh vượng của Singapore có nhiều nguyên nhân, nhưng chắc chắn đất nước Singapore nhỏ bé không thể có được vị thế toàn cầu như ngày nay nếu không có tiếng Anh, mặc dù họ vẫn phát âm tiếng Anh theo cách của người Singapore (Singlish).
Malaysia từng có thời gian dài sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy trong trường học, sau đó chuyển thành tiếng Malay, rồi quay trở lại sử dụng tiếng Anh. Nước này từng dấy lên các cuộc tranh cãi. Một bên cho rằng việc không dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy trong trường phổ thông làm suy giảm khả năng tiếng Anh của người học và người dân nói chung. Ngược lại, phía bên kia lo lắng tiếng Anh làm suy yếu ngôn ngữ, bản sắc và tự hào dân tộc. Gần đây Bộ Giáo dục Malaysia áp dụng chương trình song ngữ Dual Language Program (DLP) để cân bằng những lo ngại trên.
Philippines cũng sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy từ cấp phổ thông tới đại học. Mô hình học tiếng Anh theo hình thứcimmersion(tắm trong ngôn ngữ) và intensive(học cấp tốc, cường độ cao) của Philippines trở nên nổi tiếng và phổ biến trong những năm gần đây, theo đó học viên từ các nước, bao gồm cả Việt Nam, có thể sang Philippines học tiếng Anh theo các khóa 2-4 tuần hoặc lâu hơn với thời lượng học mỗi ngày 8-10 tiếng. Cách học cường độ cao ăn - ngủ với tiếng Anh tại một quốc gia nói tiếng Anh giọng Mỹ khá chuẩn cho thấy có những hiệu quả riêng so với cách học lai rai nhiều năm, thậm chí hàng chục năm không thành thạo - thường thấy tại Việt Nam.
Có tranh luận rằng người Philippines giỏi tiếng Anh thế, nói tiếng Anh giọng Mỹ hay thế, mà quốc gia vẫn ở mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn nhiều so với các nước kém tiếng Anh hơn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Có lẽ câu chuyện về mối liên hệ giữa việc giỏi tiếng Anh và trở nên giàu có, thịnh vượng ở một quốc gia cần tới những nghiên cứu khoa học cụ thể. Chúng ta chỉ có thể cảm nhận rằng tiếng Anh thành thạo mở ra các cơ hội với thế giới, còn việc biến cơ hội thành thành tựu thì cần rất nhiều yếu tố khác.
Tôi là giáo viên tiếng Anh trung học phổ thông, vào nghề từ năm 1998 nhưng có cơ hội được thiết kế chương trình tiếng Anh cho học sinh từ mầm non tới bậc đại học. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Giảng dạy tiếng Anh cho người nói ngôn ngữ khác (TESOL) của tôi với một đại học Mỹ, nghiên cứu về mô hình giáo dục song ngữ CLIL (dạy tiếng Anh qua nội dung môn học) với trường hợp của học sinh Việt Nam, đưa lại kết luận rằng hình thức dạy song ngữ có kết quả tích cực trong việc giúp học sinh phát triển khả năng thành thạo tiếng Anh so với phương pháp truyền thống - dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ.
Tại Việt Nam, chương trình song ngữ đầu tiên trong trường phổ thông sau năm 1975 là chương trình song ngữ tiếng Pháp được thực hiện năm 1994 với sự hỗ trợ của chính phủ Pháp. Sau khi chương trình này kết thúc năm 2006 và được chuyển giao hoàn toàn cho phía Việt Nam thì chương trình tiếng Anh trở nên phổ biến, với sự xuất hiện của các trường quốc tế, trường song ngữ, trung tâm dạy tiếng Anh qua các môn học... Nổi bật trong số đó là chương trình phổ thông quốc tế Cambridge, một chương trình quốc tế linh hoạt cho phép các trường có thể dạy theo hướng song ngữ.
Bản chất chương trình này là mô hình song ngữ CLIL (content and language integrated learning), dạy tiếng Anh và nội dung học thuật mang tính tích hợp (vừa dạy ngôn ngữ vừa dạy nội dung) khá phổ biến và thành công ở châu Âu. Học sinh CLIL học ngôn ngữ không phải vì người lớn bảo rằng tiếng Anh rất quan trọng, phải học để hội nhập với thế giới (như trường hợp dạy tiếng nước ngoài với các thế hệ học sinh trước đây), mà các em sử dụng tiếng Anh làm công cụ để chinh phục các nội dung khoa học về toán, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, các bộ môn nghệ thuật...
Giáo dục phổ thông của Việt Nam hiện nay đã có nhiều thay đổi so với trước về việc dạy ngoại ngữ, trong đó nhấn mạnh kết quả đầu ra (trình độ B1 với học sinh kết thúc lớp 12) cùng mục tiêu giao tiếp thành thạo, sử dụng tiếng Anh làm công cụ học tập suốt đời thay cho cách học chỉ hướng tới việc phân tích cấu trúc ngôn ngữ.
Không có mô hình thành công nào có sẵn để Việt Nam có thể nhập khẩu ngay về và sử dụng cho cả một quốc gia về mặt ngôn ngữ. Để thành công, cần có quá trình thử nghiệm, kiểm nghiệm nhiều mô hình, nhiều phương pháp trước khi mỗi người học, mỗi trường học, mỗi quốc gia có thể lựa chọn để đạt mục tiêu.
Chưa nói tới việc áp dụng song ngữ trong trường phổ thông, chỉ cần giảng dạy ngoại ngữ một cách hiệu quả, hình thành những thế hệ người học thành thạo tiếng Anh thì khả năng nắm bắt cơ hội phát triển và có các lợi thế hơn so với các quốc gia ít thành thạo ngoại ngữ là chắc chắn.
Việt Nam đang đi đúng hướng trong việc quốc tế hóa lực lượng lao động của mình với trình độ ngoại ngữ được nâng lên mà không đánh đổi bằng sự yếu thế của ngôn ngữ dân tộc.
Bùi Khánh Nguyên
" alt=""/>Đọc thông viết thạo tiếng AnhNằm gần con phố mua sắm sầm uất Jiefangbei Pedestrian của Trùng Khánh, Công viên Nhân dân Trùng Khánh có diện tích chỉ 1,2 ha với tuổi đời hơn 100 năm.
Mặc dù có ít điểm tham quan, nơi này nối nửa trên và nửa dưới của thành phố, với những con đường uốn khúc và bậc đá đan chéo nhau.
Ở đây cũng có khu vực mai mối, được truyền thông mô tả là “góc tình yêu mới nhất trong công viên” của Trung Quốc, theoZaobao.
Trước đây, góc mai mối Trùng Khánh được đặt tại điểm thu hút khách du lịch Hongyadong trong hơn một thập kỷ. Việc tiếp cận khu vực này trong 3 năm qua bị hạn chế do dịch Covid-19.
Vì vậy, góc mai mối được chuyển đến Công viên Nhân dân Trùng Khánh vào nửa cuối năm 2022.
Vào cuối tuần, các bậc phụ huynh đổ xô đến công viên từ sáng sớm, dành thời gian xem xét thông tin cá nhân của những người độc thân được trưng bày ở nhiều góc để không bỏ lỡ bất kỳ bạn tình tiềm năng nào cho con cái.
Trớ trêu thay, thường có rất ít người trẻ tuổi trong đám đông.
Những người mai mối hoạt động ở công viên cho biết kể từ khi các hạn chế Covid-19 được nới lỏng, nhu cầu tăng đột biến. Nhiều ông bố, bà mẹ ở Trùng Khánh tới đây tìm bạn đời cho con.
Liu Jun, bà mối 60 tuổi, nói: “Nhiều ông bố, bà mẹ tích cực giúp con cái tìm bạn đời vì thông cảm với khối lượng công việc và sự căng thẳng của thế hệ trẻ”.
Vào một ngày oi ả, Shen Zaicheng (50 tuổi) bất chấp nắng nóng để tìm đối tượng phù hợp cho con trai, nhưng thất vọng sau khi lướt qua “biển” thông tin cá nhân. Trên thực tế, ông lui tới góc này hơn một tháng nay.
Shen và gia đình sống ở khu Jiefangbei của Trùng Khánh 20 năm. Dù ở góc mai mối có rất nhiều cô gái có thể phù hợp với con trai ông, gia đình họ lại đòi hỏi quá khắt khe.
“Họ không chỉ nhìn vào học vấn và công việc của người đàn ông, mà còn muốn cậu ta có nhà lầu, xe hơi, ý chí phấn đấu và giá trị sống đúng đắn, cao ráo, đẹp trai…”, ông than thở.
Hầu hết “quảng cáo” của người độc thân được trưng bày tại góc mai mối đều do cha mẹ trả tiền, với thông tin về chiều cao, cân nặng, nghề nghiệp, thu nhập, trình độ học vấn và yêu cầu về đối tác tiềm năng được liệt kê rõ ràng. Chi tiết liên lạc cũng được cung cấp.
Nhiều phụ huynh than thở góc mai mối giống như “đại siêu thị” và họ phải cố gắng “vượt mặt” các ông bố, bà mẹ khác. Đó cũng là mô hình thu nhỏ của sự phân chia kinh tế xã hội.
![]() ![]() |
Người mai mối ở góc mai mối Trùng Khánh mời các bậc phụ huynh quét mã QR để tham gia nhóm WeChat, mở rộng mối quan hệ sang các nền tảng xã hội (trái). Ảnh:Edwin Ong/SPH. |
Shen nói rằng cha mẹ ở góc mai mối là người gác cổng cho lựa chọn bạn đời của con cái. Họ sẽ gọi điện thoại hoặc WeChat trong nửa tháng để tìm hiểu mọi thứ có thể về đối phương và kiểm tra kỹ lưỡng tính xác thực của thông tin được quảng cáo, ví như tài sản, trình độ học vấn, công việc.
Buổi hẹn xem mắt giữa những người trẻ tuổi chỉ có thể được sắp xếp sau khi xác minh thỏa đáng.
Vì gia đình không khá giả, Shen nói rằng ông không dám tiếp cận gia đình của các cô gái.
“Chúng tôi không đáp ứng được tiêu chí của họ. Vì vậy, có mở lời cũng vô nghĩa”, ông kể.
Kết quả từ cuộc Tổng điều tra dân số quốc gia lần thứ 7 của Trung Quốc được công bố tháng 5/2021 cho thấy nam giới trong độ tuổi 20-40 nhiều hơn 17,52 triệu người so với nữ giới. Điều này cho thấy sự mất cân bằng giữa những người trong độ tuổi kết hôn và phụ nữ nắm giữ lợi thế khi lựa chọn bạn đời.
Trong hầu hết gia đình ở Trùng Khánh, theo truyền thống, người phụ nữ nắm giữ hầu bao và có tiếng nói quyết định, khiến đàn ông trở thành “phái yếu”.
Shen nói rằng do có quá nhiều nam giới đến tuổi kết hôn hơn phụ nữ, việc gia đình nhà trai phải nịnh bợ nhà gái thường xảy ra nhiều hơn.
“Nếu có bằng cử nhân, một cô gái sẽ muốn nửa kia có học vấn cao hơn. Nếu kiếm được mức lương 10.000 nhân dân tệ (1.400 USD), cô ấy chọn yêu người kiếm được nhiều hơn thế”, ông nói, nhấn mạnh sự bất bình đẳng trong tiêu chí hẹn hò.
Shen cũng quan sát thấy những thanh niên có công việc ổn định, thu nhập cao, nhà riêng và ôtô vẫn được ưa chuộng ở góc mai mối.
“Ngay cả khi đẹp trai và cao 1,8 m, một chàng trai vẫn không được lựa chọn nếu công việc bấp bênh, không có tiền tiết kiệm và nhà riêng. Các cô gái thậm chí sẽ không thèm ngó ngàng vì cậu ta không làm cho họ cảm thấy an toàn”, ông nói.
Shen than thở rằng “cơ hội mai mối thành công rất thấp, thậm chí không đến 10%. 99,99% người ở đó rất thực dụng, chỉ nhìn vào tiền”.
Chen Zihan, bà mối 32 tuổi ở Trùng Khánh, đồng tình rằng cơ hội thành công ở góc mai mối là “không cao lắm”. Cô chỉ ra rằng ngày nay, giới trẻ nhìn chung không mặn mà với hôn nhân. Khá nhiều người chỉ đến các buổi mai mối vì hiếu kỳ.
Theo Chen, người trẻ ở Trùng Khánh đến tuổi kết hôn được chia thành 3 loại: nhóm có thể tự nuôi sống bản thân và khao khát tự do; nhóm không thể nuôi sống bản thân, nói gì đến gia đình; nhóm cảm thấy họ xuất thân từ gia đình khá giả và đặt ra những yêu cầu không thực tế cho đối phương.
Chen quan sát thấy rằng trong khi những người ở nhóm thứ 2 muốn ổn định cuộc sống và lập gia đình, họ thường thiếu điều kiện vật chất và không thể làm được điều đó.
Cô chỉ ra rằng ngày nay, phụ nữ Trùng Khánh kén chọn bạn đời hơn nam giới. Họ muốn những người đàn ông “phục tùng họ”, vì vậy “khó tìm được người phù hợp hơn vì đòi hỏi cao hơn”.
![]() |
Góc mai mối Trùng Khánh của Trung Quốc được chuyển từ Hongyadong đến Công viên Nhân dân Trùng Khánh. Ảnh:Edwin Ong/SPH. |
Dù tỷ lệ thành công không cao, Shen vẫn trông chờ vào “cơ hội duy nhất” này để tìm vợ cho con trai vì cả nhà đều không có mối quan hệ xã hội lớn.
Yu Ping (ngoài 50 tuổi) thay mặt con trai đến góc mai mối. Con trai bà cao gần 1,8 m và khá đẹp trai, nhưng gia đình không khá giả. Họ thuê nhà và không sở hữu bất động sản, xe hơi. Ngay cả khi con trai muốn kết hôn và lập gia đình, họ cũng không thể sắm sửa.
Yu nói hơn 3 năm xảy ra đại dịch khiến cuộc sống gia đình trở nên khó khăn hơn. Nhiều công ty tước bỏ phần thưởng tiền mặt và quà cho nhân viên vào các dịp lễ, Tết để giúp họ trang trải chi phí sinh hoạt. Tác động kinh tế đối với người trẻ tuổi là đáng kể.
Những ông mai, bà mối cũng như phụ huynh ở góc mai mối tiết lộ mức lương mà những người trẻ tuổi ở Trùng Khánh kiếm được thường ở mức thấp, chỉ 4.000-6.000 nhân dân tệ/tháng. Rất ít người trong số họ kiếm được hơn 10.000 nhân dân tệ/tháng.
Nhiều thanh niên làm việc ở trung tâm thành phố Trùng Khánh phải thuê nhà trọ. Với giá thuê rẻ nhất trên thị trường khoảng 1.000 nhân dân tệ/tháng, họ cần phải thận trọng phân bổ thu nhập còn lại hàng tháng cho các nhu yếu phẩm hàng ngày, thực phẩm, hàng tạp hóa, tiện ích và phương tiện đi lại.
Gu Jia (ở độ tuổi 30) đang phải đối mặt với áp lực kết hôn lớn từ gia đình. Cô là một trong số ít người trẻ tuổi ở góc mai mối. Cô cho rằng có nhiều yếu tố ngăn cản người trẻ lập gia đình.
“Mọi thứ ngày càng đắt đỏ mà lương thì bấp bênh, không nuôi nổi gia đình. Tôi hầu như không thể lo được cho chính mình”.
Gu chỉ ra rằng triển vọng tồi tệ của thị trường lao động có nghĩa là những người trẻ tuổi không có nhiều hy vọng về việc tăng lương.
“Không phải giới trẻ không muốn kết hôn, chỉ là chúng tôi không thể đủ khả năng”, cô nói.
![]() |
Cứ mỗi cuối tuần, một nhóm lớn các bậc cha mẹ lại đổ xô đi tìm bạn đời cho con cái của họ. Ảnh:Edwin Ong/SPH. |
Tan Gangqiang, người đứng đầu trung tâm tư vấn tâm lý ở Trùng Khánh, nói rằng những điều kiện bên ngoài không thuận lợi hiện nay ngăn cản những người trẻ tuổi kết hôn vì trước tiên họ cần phải tự lo cho mình.
Giới trẻ có thể thay đổi công việc và địa điểm làm việc thường xuyên hơn hoặc có thể lựa chọn học lên cao hơn để nâng cấp bản thân. Đây là tất cả trở ngại chính để ổn định với một gia đình.
Bên cạnh đó, Gu thú nhận rằng cô sợ hôn nhân vì tỷ lệ ly hôn cao ở Trung Quốc cùng với tác động của các vụ ly hôn gây chấn động của ngôi sao nổi tiếng khiến nhiều người thuộc thế hệ của cô mất niềm tin vào hôn nhân.
“Ngay cả những người yêu nhau sâu đậm cũng phải ly dị nhau”, cô nói.
Thống kê của Bộ Nội vụ Trung Quốc cho thấy tỷ lệ ly hôn ở Trung Quốc tăng cao trong hai thập kỷ qua, từ 1,05% (năm 2003) lên hơn 3% (năm 2020). Trên thực tế, cuộc khảo sát hôn nhân quốc gia năm 2020 cho thấy tỷ lệ ly hôn giữa những người sinh sau năm 1990 cao tới 56,7%.
Hơn nữa, Gu chỉ ra rằng hôn nhân thất bại có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với phụ nữ.
“Họ không chỉ mất đi tuổi trẻ, tệ nhất là có thể phải một mình nuôi con sau khi ly hôn. Tôi nhận thấy phụ nữ lỡ dở hôn nhân có con cảm thấy khó tái hôn. Trên thực tế, họ có thể bị xa lánh và coi thường trong quá trình mai mối. Ngay cả những anh chàng không nổi bật cũng sẽ từ chối phụ nữ ly hôn và có con riêng”, cô nói.
Gu cảm thấy việc những người trẻ tuổi không muốn kết hôn là vấn đề nghiêm trọng hơn già hóa dân số trong bối cảnh khủng hoảng dân số ở Trung Quốc.
Gần đây, một số chính quyền địa phương đưa ra các chính sách mới để đảm bảo rằng trẻ em sinh ra ngoài giá thú cũng được nhà nước bảo vệ tương tự, điều này sẽ tác động đến thể chế hôn nhân.
“Thành thật mà nói nếu điều này trở thành tiêu chuẩn trên toàn quốc, tỷ lệ kết hôn có thể giảm hơn nữa vì nó khiến chúng tôi sợ hãi”, cô nói.
Chính phủ Trung Quốc có nhiệm vụ khó khăn là loại bỏ các rào cản và thuyết phục các cặp đôi trẻ Trung Quốc bước vào lễ đường trong tương lai gần.
Và góc mai mối Trùng Khánh sẽ tiếp tục chứng kiến cảnh các bậc phụ huynh lo lắng và mong mỏi trong thời gian tới.
Theo Zing
Bà có thể chia sẻ một chút về việc, ngày xưa các bà các chị đi lễ chùa là mặc áo dài truyền thống. Hoặc trong văn học, trong tranh ảnh... người xưa quan niệm thế nào là trang phục chuẩn mực đi lễ chùa?
Ngày xưa, dĩ nhiên rồi, đi lễ chùa các bà các mẹ các chị mặc áo dài may theo lối truyền thống: cổ áo cao, tà áo khép, màu sắc nền nã. Không chỉ người thành phố mà người thôn quê cũng mặc áo dài, giàu nghèo khác nhau ở chất liệu không khác nhau về kiểu dáng. Kiểu dáng nhất thiết phải kín đáo, biểu hiện tinh thần khép mình và hướng thượng trong chốn tôn nghiêm, cần có trang phục xứng với điều đó.
Trên thực tế, cứ mùa lễ hội là lại xuất hiện những hình ảnh ăn mặc hở hang, phản cảm nơi đền chùa.
Theo bà, những hình ảnh ăn mặc hở hang, lố lăng ảnh hưởng thế nào đến cảnh quan nơi được coi là linh thiêng cũng như với những người thành tâm đến lễ phật?
Các triết gia vẫn nói “con người là động vật có tính xã hội”, hay “tự do của mỗi người là điều kiện tự do của tất cả mọi người”, mỗi một hành động của con người đều tác động lên người khác. Những người đi lễ chùa theo lối tranh thủ “nhất cử lưỡng tiện” như đã nói ở trên sẽ làm ảnh hưởng đến những người đi lễ toàn tâm toàn ý. Sự hở hang, khêu gợi, lòe loẹt gây phản cảm sẽ làm nhức nhối cho người bên cạnh, cho không khí chung. Tôn trọng cái chung là văn hóa, phá vỡ cái chung đó là thiếu văn hóa, thậm chí vô văn hóa.
![]() |
Theo nhà văn Trần Thị Trường, trang phục như thế này không đẹp chút nào. |
Bản thân bà đã chứng kiến những hình ảnh, trang phục không đẹp mắt khi đi đến đền chùa? Cảm giác của bà khi đó thế nào?
Tôi có gặp, và rất ngạc nhiên khi thấy nhiều chị, nhiều em xinh, trang phục đẹp nhưng đáng tiếc đã mặc không đúng chỗ. Đẹp mấy mà không đúng chỗ thì cũng thành xấu. Tôi vừa sang thăm con gái ở Mỹ về.
Tôi thấy bạn bè, hàng xóm của tôi ở Mỹ, họ ăn mặc đủ các kiểu, nhưng đã đến Nhà hát, hay Nhà thờ ai nấy đều mặc bộ nghiêm chỉnh nhất, đó là thể hiện sự tôn trọng Đấng mình đến lễ, và với mọi người xung quanh.
Theo bà, vì sao liên tục có những ý kiến, truyền thông phản ánh mà năm nào cũng vẫn xuất hiện những hình ảnh ăn mặc chưa phù hợp nơi đền chùa?
Đó là ý thức của mỗi người chưa cao. Nếu nói quá lên thì đó là mù thẩm mỹ. Lẫn lộn các ngưỡng văn hóa. Để tình trạng này vẫn tiếp diễn, theo bà là do ý thức của người dân chưa cao hay do sự quản lý của các cơ quan chức năng chưa mạnh mẽ, quyết liệt?
Cơ bản vẫn là ý thức của mỗi cá nhân. Nhưng tôi cũng thấy các Chùa nên có tấm biển nhỏ nơi cửa vào “Chú ý: Trang phục phù hợp chốn tôn nghiêm”. (Không nên quy định ngắn dài bao nhiêu như đâu đó đã ra quy định).
Chỉ cần nhắc nhở nhẹ nhàng như trên kia thôi, thì dần dần người ta sẽ phải tìm hiểu thế nào là phù hợp. Chả lẽ, vẫn còn có kẻ mãi không hiểu?
Xin cảm ơn bà về những chia sẻ!
Theo Dân trí
" alt=""/>“Ăn mặc hở hang, khêu gợi nơi đền chùa là hành vi thiếu văn hóa”