, chiếm 0,41%. Con số này thấp hơn rất nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Những lý do nào đã giúp chúng ta có tỷ lệ bệnh nhân tử vong thấp và làm thế nào để duy trì thành quả trên?</p><p>Dưới đây là chia sẻ của BSCKII Nguyễn Trung Cấp, Phó Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, người trực tiếp tham gia điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng từ khi dịch bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam tới nay về vấn đề này.</p><table class=)
 |
BSCKII Nguyễn Trung Cấp, Phó Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương - Ảnh: Thạch Thảo |
Theo bác sĩ, vì sao tỷ lệ tử vong của bệnh nhân Covid-19 tại Việt Nam thấp hơn so với các nước trên thế giới?
Từ trước đến nay, các làn sóng dịch Covid-19 ở Việt Nam chủ yếu xảy ra tại khu công nghiệp, người mắc đa số là công nhân trẻ, ít bệnh nền, do vậy số tử vong ít. Một số đợt dịch xảy ra trong bệnh viện, trên những nhóm bệnh nhân nặng, chúng ta cũng phải chứng kiến tỷ lệ tử vong khá cao.
Trong tất cả các đợt dịch xảy ra, chúng ta đều kiểm soát F0 ngay từ đầu, khống chế được số bệnh nhân nặng không vượt quá khả năng chăm sóc của hệ thống hồi sức. Việt Nam chưa từng để xảy ra tình trạng thiếu máy thở, thiếu oxy hay nhân viên y tế kiệt sức, không chăm sóc nổi bệnh nhân.
Do vậy, chúng ta đã giữ được tỷ lệ tử vong chung do Covid-19 khá thấp so với nhiều nước trên thế giới.
Đợt dịch thứ tư lần này xảy ra ở diện rộng với số ca bệnh lớn, đòi hỏi hệ thống điều trị phải nỗ lực nhiều hơn nữa mới giữ được thành quả đó.
Như bác sĩ đã nói, hệ thống hồi sức có vai trò đặc biệt quan trọng giúp giảm tỷ lệ tử vong của bệnh nhân Covid-19. Vậy ông đánh giá thế nào về năng lực của hệ thống hồi sức tại Việt Nam hiện nay?
Chuyên ngành Hồi sức cấp cứu vốn là chuyên ngành khó, đòi hỏi đào tạo kỹ càng, công việc vất vả và thu nhập thấp trong ngành y. Bởi vậy từ nhiều năm qua, khả năng thu hút thầy thuốc theo chuyên ngành này không nhiều.
Bên cạnh đó, mặc dù đã được Bộ Y tế quan tâm nhưng trên thực tế, các trang thiết bị hồi sức cấp cứu như máy thở, máy lọc máu, ECMO rất đắt tiền, lại không sinh lợi nhuận như những loại máy khác (máy siêu âm, can thiệp mạch,...) Bởi vậy, nhiều bệnh viện, địa phương chưa ưu tiên đầu tư.
Có thể nói trừ 3 trung tâm ở 3 miền là Hà Nội, TP.HCM, Huế-Đà Nẵng và một vài tỉnh lớn có đội ngũ thầy thuốc cùng trang bị hồi sức cấp cứu tương đối mạnh, còn lại ở nhiều tỉnh, năng lực về hồi sức còn hạn chế.
Thực tế trong các đợt dịch Covid-19 trước đây, Hà Nội, TP.HCM, Huế-Đà Nẵng,… đã tập trung hỗ trợ các tỉnh bạn. Tuy nhiên nếu dịch bùng phát trên diện rộng, khi không còn nhận được sự hỗ trợ nhiều, một số địa phương có thể sẽ gặp khó khăn trong công tác điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng.
Một số ý kiến cho rằng, các bệnh nhân Covid-19 không triệu chứng, triệu chứng nhẹ có thể tự khỏi, bởi vậy nên cho nhóm này cách ly, theo dõi sức khỏe tại nhà để giảm áp lực cho cơ sở điều trị. Ông đánh giá thế nào về quan điểm này?
Bệnh nhân khi mới mắc Covid-19 có thể xuất hiện các triệu chứng khởi phát hoặc không, sau đó đa số qua 7 ngày sẽ sang giai đoạn hồi phục.
Nhưng vẫn có nhiều ca khi khởi phát không có triệu chứng gì đáng kể, qua 7-8 ngày lại diễn biến thành rất nặng, thậm chí tử vong. Do vậy, tại thời điểm mới phát hiện dương tính, không thể biết trước ca nào sẽ diễn tiến nặng hay nhẹ. Chỉ qua ngày thứ 8-9 mới xác định được ai là bệnh nhân nặng, ai là người nhẹ.
Một bệnh nhân Covid-19 chỉ được coi là không triệu chứng, hay triệu chứng nhẹ nếu từ khi khởi phát bệnh đến lúc khỏi hẳn không hề có biểu hiện gì hoặc chỉ có biểu hiện nhẹ.
 |
|
 |
Điều trị, cấp cứu bệnh nhân Covid-19 nặng tại Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương - Ảnh: Đặng Thanh |
Theo ông, chúng ta cần có những giải pháp nào để sàng lọc, phân loại các bệnh nhân Covid-19 nặng hay nhẹ?
Thời điểm mấu chốt để phân loại bệnh nhân nặng hay nhẹ là ngày thứ 7-8 kể từ khi phát hiện dương tính. Tuy nhiên, điều khó khăn là nhiều ca bệnh khởi phát không triệu chứng nên không biết ngày nào là ngày thứ 7-8 của bệnh.
Do đó, cần coi những ca mới phát hiện dương tính trong tuần đầu tiên là nhóm có nguy cơ diễn biến nặng, theo dõi sát và sàng lọc dấu hiệu nặng, đặc biệt chú trọng thời điểm ngày thứ 7-8. Còn những người sau ngày thứ 8 vẫn không diễn biến xấu có thể coi là ca bệnh nhẹ, không cần điều trị gì thêm và đưa ra cách ly chờ hồi phục.
Khó khăn lớn nhất hiện tạilà nhiều thầy thuốc còn nhầm lẫn, cho rằng ca nhập viện không triệu chứng hoặc chỉ xuất hiện triệu chứng nhẹ tức họ là bệnh nhân nhẹ, xếp họ vào khu vực không được theo dõi sát, dễ dẫn đến không phát hiện được các diễn biến nặng kịp thời.
Khó khăn thứ hailà để nhận biết sớm các dấu hiệu cảnh báo nguy cơ diễn biến nặng, đòi hỏi phải có những xét nghiệm đánh giá về đông máu, miễn dịch và biết cách phiên giải phù hợp.
Do Covid-19 là bệnh lý mới xuất hiện, nhiều nơi chưa thực hiện được các xét nghiệm này, thầy thuốc chưa có kinh nghiệm nhận định, phiên giải. Phải đợi đến khi bệnh nhân biểu hiện lâm sàng nặng như khó thở, sốc mới phát hiện ra sẽ khiến việc điều trị kém hiệu quả.
Khó khăn thứ balà ngay cả những bệnh nhân có tổn thương phổi nặng và suy hô hấp thì nhiều người cũng không biểu hiện khó thở. Tình trạng này được gọi là “thiếu oxy yên lặng”. Nếu y bác sĩ không có kinh nghiệm hoặc thiếu thiết bị đo độ bão hòa oxy máu, có thể bỏ sót dẫn đến bệnh nhân nguy kịch hoặc tử vong.
Hệ thống y tế phải làm gì, kiểm soát thế nào để giảm thiểu tối đa việc nhóm bệnh nhân không có triệu chứng diễn biến nặng?
Về công tác tổ chức, chúng tôi cho rằng phải coi những bệnh nhân Covid-19 trong tuần đầu kể từ khi phát hiện bệnh là nhóm nguy cơ diễn biến nặng, cần theo dõi sát.
Bất kỳ thời điểm nào ở giai đoạn này, đặc biệt là ngày thứ 7-8 mà sàng lọc, phát hiện các dấu hiệu nguy cơ hoặc biểu hiện nặng, phải chuyển bệnh nhân sang khu điều trị sớm theo cơ chế bệnh sinh để ngăn ngừa xu hướng diễn biến nặng, hồi sức kịp thời nếu tình trạng bệnh xấu đi.
Chỉ những bệnh nhân sau hơn 1 tuần vẫn không có dấu hiệu dự báo tiến triển nặng trên lâm sàng và xét nghiệm mới được coi là bệnh nhân nhẹ và chuyển sang khu cách ly chờ hồi phục.
Tại những địa bàn đã xảy ra dịch như Hải Dương hoặc Bắc Ninh trước đây, chúng tôi áp dụng mô hình điều trị gọi là “tháp 3 tầng”. Có thể tưởng tượng hệ thống điều trị như tòa tháp, càng thấp thì bệnh nhân càng nhiều nhưng nhân viên y tế ít, càng lên cao càng giảm số bệnh nhân nhưng tập trung nhân viên y tế và trang bị kỹ thuật càng cao.
Bệnh nhân Covid-19 mới phát hiện được nhập vào tầng 2 của tháp (khu vực có khả năng theo dõi và sàng lọc dấu hiệu nặng). Nếu sau 7-8 ngày không có biểu hiện nặng thì được chuyển xuống tầng 1 của tháp (khu vực cách ly chờ ra viện). Trong bất kỳ thời điểm nào phát hiện được xu hướng diễn biến nặng, bệnh nhân sẽ được chuyển lên tầng 3 của tháp điều trị (khu vực có thể điều trị và hồi sức tích cực).
Nguyễn Liên

Năm bệnh nhân Covid-19 tử vong, cả nước có 110 trường hợp
Chiều 9/7, Việt Nam công bố thêm 5 bệnh nhân Covid-19 tử vong, trong đó có 3 ca ở Đồng Tháp, 2 ca ở TP.HCM, nâng tổng số ca tử vong lên 110.
" alt=""/>Lý do tỷ lệ tử vong của bệnh nhân Covid

 |
Dòng xe nhích từng mét trên đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ (Hà Nội) sau những kỳ nghỉ lễ Tết (Ảnh: Hoàng Hiệp) |
Kỳ nghỉ Tết Nguyên đán năm nay kéo dài đến hết ngày 6/2 (mùng 6 Tết). Vậy nên ngay từ lúc này, nhiều gia đình đang chuẩn bị “khăn gói” quay trở lại thành phố, trở lại với sinh hoạt thường nhật.
Dưới đây là một số lời khuyên giúp hành trình trở về thành phố của bạn được an toàn, thuận lợi và hạn chế rơi vào cảnh tắc đường:
1. Kiểm tra phương tiện trước khi khởi hành
Khi trở lại với thành phố sau dịp nghỉ Tết, không thể tránh được tình trạng đông xe cùng đổ dồn về các tuyến đường cửa ngõ ngay cả trong giờ thấp điểm. Việc tắc đường quá lâu có thể dẫn tới chiếc xe bị nóng máy, nặng có thể chết máy giữa đường khiến bạn phải mất rất nhiều thời gian để khắc phục.
Không những vậy, điều này còn khiến tình hình ùn tắc giao thông càng trở nên phức tạp hơn. Do vậy, hãy dành một chút thời gian kiểm tra kỹ các chi tiết trên xe trước khi khởi hành.
 |
Dành vài phút kiểm tra xe và đổ "kha khá" xăng sẽ khiến hành trình được an toàn, an tâm hơn. (Ảnh: Hoàng Hiệp) |
Cũng giống như việc kiểm tra xe trước mỗi chuyến đi xa, bạn cần “soi” qua các chi tiết như: Lốp xe, phanh, ắc quy, nước làm mát động cơ, nước rửa kính, đèn xe,... nhằm đảm bảo chiếc xe của bạn đang có trạng thái hoạt động tốt nhất, giảm thiểu tối đa rủi ro không đáng có trên đường.
Bạn cũng nên đổ đầy bình nhiên liệu trước khi trở lại thành phố, tránh việc dừng chờ lâu trên các tuyến cao tốc, đường vành đai trong tình trạng bình xăng cạn kiệt.
2. Nên xuất phát sớm hơn
Tâm lý thông thường của nhiều gia đình là muốn hưởng trọn vẹn thời gian nghỉ Tết, do đó hầu hết đều bắt đầu xuất phát vào buổi chiều của ngày nghỉ cuối cùng (mùng 6 Tết). Lượng phương tiện ô tô, xe máy quá lớn cùng đổ về thành phố trong một thời điểm sẽ khiến các cửa ngõ kẹt cứng. Thông thường, thời điểm từ 15h-21h sẽ là thời gian "nóng bỏng" nhất trên các tuyến cửa ngõ sau mỗi kỳ nghỉ dài.
Do vậy, nếu không có việc gì quá cấp thiết, bạn nên thay đổi thời điểm xuất phát để chuyến đi được “dễ thở” hơn. Có thể căn giờ trở lại thành phố từ buổi sáng hoặc "chắc ăn" hơn là từ ngày hôm trước. Điều này vừa khiến chúng ta có nhiều thời gian nghỉ ngơi, vừa tránh cảnh ùn dài hàng giờ đồng hồ trên đường.
 |
Vào ngày cuối cùng của nhưng đợt nghỉ lễ, dòng phương tiện lại chen chúc nhau đổ về các thành phố. (Ảnh: Phạm Hải) |
3. Chọn lộ trình thích hợp
Chọn lộ trình thích hợp cũng là điều rất quan trọng khi trở lại thành phố sau kỳ nghỉ Tết. Thông thường, sẽ có nhiều tuyến đường để vào được thành phố mà bạn có thể đi, không nhất thiết phải là trục đường chính và gần nhất.
Khi chuẩn bị đến các điểm rẽ, lái xe có thể tham khảo thông tin trên radio hoặc sử dụng ứng dụng Google map để cập nhật, kiểm tra tình trạng ùn tắc nhằm lựa chọn cung đường hợp lý nhất.
4. Giữ khoảng cách an toàn, không phanh gấp
Trong trường hợp gặp phải cảnh ùn tắc trên đường, bạn cũng đừng nôn nóng bởi sự mất kiên nhẫn không làm bạn đi nhanh hơn được. Đặc biệt chú ý đó là giữ khoảng cách an toàn bởi xe phía trước có thể phanh gấp bất cứ lúc nào mà nếu không chú ý, bạn rất dễ đâm vào. Khi đó, lỗi sai hoàn toàn thuộc về bạn.
Khi đi đường tắc, bạn cũng nên hạn chế tối đa việc phanh gấp, sẽ khiến xe phía sau đâm phải, rất mất thời gian để giải quyết và làm cảnh tắc đường thêm trầm trọng.
 |
Khi trở lại thành phố, lái xe nên đi đúng làn đường, phần đường của mình và tuân theo sự điều tiết của lực lượng chức năng. (Ảnh: Hoàng Hiệp) |
5. Không lái xe kiểu "điền vào chỗ trống"
Mỗi khi đường đông, một thói xấu mà nhiều lái xe mắc phải là kiểu “điền vào chỗ trống”. Hễ thấy làn bên cạnh có khoảng trống là chuyển làn sang, tạt đầu xe phía sau để “ngoi” lên trên.
Trên thực tế không hiếm gặp trường hợp ô tô đi cả vào làn khẩn cấp hoặc vào phần đường dành cho xe máy. Nếu chỉ vì nóng vội mà chuyển làn, tạt đầu các xe khác sẽ rất dễ xảy ra va chạm, càng khiến ùn tắc thêm khủng khiếp hơn.
Lời khuyên của những lái xe có kinh nghiệm là hãy bình tĩnh, cố gắng đi đúng là đường và chỉ chuyển làn khi thực sự cần thiết, tránh gây ức chế cho những người tham gia giao thông xung quanh. Đồng thời, tuân thủ tuyệt đối theo sự điều tiết, phân luồng của các lực lượng chức năng.
Và cuối cùng, luôn giữ cho mình tâm lý thoải mái nhất sau tay lái. Sự nóng vội, ức chế hay mất tập trung vừa không giúp bạn đỡ tắc đường hơn, lại có thể làm hại bạn và những người xung quanh.
Hoàng Hiệp
Mời bạn đọc chia sẻ bài viết, video, hình ảnh về Ban Ô tô xe máy theo email: [email protected]. Các nội dung phù hợp sẽ được đăng tải. Xin cảm ơn!

Dòng xe xuôi ngược trên hè dưới phố ngày 28 Tết, ô tô 'bò' trên đường Hà Nội
Đường Lạc Long Quân, Âu Cơ dẫn vào các chợ (quận Tây Hồ, Hà Nội) ùn tắc từ sáng đến chiều do lượng người đổ về mua hoa Tết quá đông.
" alt=""/>Lái xe trở lại thành phố sau kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán thế nào cho đỡ tắc đường?