Một mặt, những cảnh báo rằng cuộc tấn công có thể bắt đầu bất cứ lúc nào được đưa ra từ Washington. Mặt khác, có nhiều ý kiến cho rằng cuộc xung đột nổ ra vẫn là một xác suất thấp; điều này chủ yếu đến từ châu Âu, trong đó có cả nước láng giềng phía Bắc của Ukraina, Belarus.
![]() |
Tổng thống Nga Vladimir Putin và người đồng cấp Belarus Alexander Lukashenko. Ảnh: Kremlin.ru |
Theo Tiến sĩ Ioffe, một ví dụ điển hình về quan điểm này đến từ Tổng thống Belarus Alexander Lukashenko. Trong cuộc phỏng vấn ngày 4/2 với người dẫn chương trình truyền hình hàng đầu của Nga Vladimir Solovyev với câu hỏi: “Ông có thấy khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh lớn ở châu Âu không? Đầu tiên là với Ukraina, sau đó là với phần còn lại của châu Âu?”, nhà lãnh đạo Belarus đáp lại rằng: “Không, vì phương Tây sẽ không hy sinh điều kiện sống của mình".
Vài ngày sau, Đại diện cấp cao EU về Chính sách đối ngoại và an ninh Josep Borrell cũng bày tỏ sự nghi ngờ về chiến tranh sẽ bùng phát. Bộ trưởng Ngoại giao Belarus Vladimir Makei ngày 16/2 đã nhấn mạnh "sẽ không có một binh sĩ và thiết bị quân sự nào của Nga” ở lại Belarus sau khi kết thúc cuộc tập trận chung "Quyết tâm Đồng minh 2022", dự kiến kết thúc vào ngày 20/2.
“Có vẻ như Điện Kremlin và Washington đang tiến hành một chiến dịch phối hợp, bất thành văn, để gây áp lực buộc [Tổng thống Ukraina Volodymyr] Zelensky tuân thủ các thỏa thuận Minsk. Mỹ đang đóng vai trò là kẻ khiêu khích, thổi phồng sự cuồng loạn xung quanh việc Nga có thể tấn công Ukraina, trong khi vai trò của Nga là tạo ra một bức tranh xác nhận khả năng xảy ra xung đột quân sự”, chuyên gia Arseny Sivitsky tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách Đối ngoại ở Minsk nhận định.
Về phần mình, Artyom Shraibman, học giả không thường trú tại Viện Carnegie về Hòa bình Quốc tế, cũng đồng quan điểm trên. Trong một cuộc phỏng vấn với Đài Tự do Belarus, ông Shraibman nhận xét rằng “nếu Tổng thống Ukraina Zelensky thay đổi lập trường của mình đối với các thỏa thuận Minsk để đối phó với áp lực từ Paris hoặc Berlin, ông sẽ bị các đối thủ chính trị chỉ trích.
Đó sẽ là một sự đầu hàng đáng xấu hổ vì áp lực. Nhưng thực hiện điều này trong bối cảnh quân đội Nga ở sát biên giới lại là một điều khác biệt”. Ông Shraibman cũng cho rằng những binh sĩ Nga sẽ rời khỏi lãnh thổ Belarus không muộn hơn một tuần sau khi kết thúc cuộc tập trận Nga-Belarus đang diễn ra.
Trong khi đó, một học giả không thường trú khác tại Carnegie, Andrei Movchan, trích dẫn một báo cáo ngày 9/2 của Trung tâm Nghiên cứu Nga ở Thụy Điển, lưu ý rằng các lực lượng Nga đóng gần biên giới với Ukraina đã không triển khai các đơn vị hậu cần hoặc tác chiến điện tử và kỹ thuật đặc biệt, cũng như chỉ có một số đơn vị của lực lượng không quân Nga ở đó. Những điều này cùng những yếu tố khác dẫn đến dự báo là cuộc xâm lược khó xảy ra.
Một yếu tố bổ sung cho luận điểm ít có khả năng xảy ra chiến tranh Nga-Ukraina là Trung Quốc. Cuối năm ngoái, do tranh chấp giữa Kiev và Warsaw về giấy phép vận tải đường bộ, Cơ quan Đường sắt Ukraina đã ban hành lệnh cấm vận chuyển hàng hóa từ Nga, Kazakhstan, Trung Quốc và các nước khác đến Ba Lan, vốn có hiệu lực từ ngày 1/12/2021.
Hai ngày sau, các hạn chế này được dỡ bỏ đối với việc vận chuyển than từ Nga. Kể từ đầu tháng 2, những hạn chế trên đã bị hủy bỏ hoàn toàn. Theo Zbigniew Tracichleb, người đứng đầu Công ty Đường sắt Ba Lan (PKP), quyết định đó có liên quan đến việc vận tải hàng hóa đến và đi từ Trung Quốc - nghĩa là, sự gia tăng đầu tư liên quan đến Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc.
Không phải ngẫu nhiên việc Ukraina quyết định mở lại mạng lưới đường sắt cho các chuyến tàu chở hàng từ Trung Quốc trùng hợp với tin tức về việc Trung Quốc đang tăng cường đầu tư vào một trung tâm hậu cần lớn ở Ba Lan và việc khởi động dự án hiện đại hóa đường cao tốc M1 ở Belarus trị giá 2 - 2,5 tỷ USD.
Trung Quốc chắc chắn sẽ dừng đầu tư trong khu vực này nếu có nguy cơ nổ ra chiến tranh ở nước láng giềng Ukraina. Kế hoạch đầu tư của Trung Quốc cũng được khẳng định sẽ tiếp tục sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình có cuộc gặp với Tổng thống Nga Putin ở Bắc Kinh hồi đầu tháng 2 này.
Cuối cùng, Giáo sư Ioffe cho rằng cuộc điện thoại gần đây của Tướng Mark Milley, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ với Tổng Tham mưu trưởng Các Lực lượng Vũ trang Belarus, Thiếu tướng Viktor Gulevich cũng là một dấu hiệu cho thấy chiến tranh chưa xảy ra.
Bất kể nội dung của cuộc điện đàm là gì, người ta có thể hiểu sự kiện này thể hiện việc Mỹ vẫn tôn trọng chủ quyền của Belarus. Hơn nữa, Belarus đã nhanh chóng phản hồi yêu cầu từ Litva, Latvia và Estonia giải thích về hoạt động quân sự trên lãnh thổ của mình và đưa ra câu trả lời trong khuôn khổ Văn kiện Vienna 2011 của Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE).
Phản hồi chính thức của Minsk tuyên bố rằng tổng quân số và vũ khí tham gia cuộc tập trận Quyết tâm Đồng minh hiện tại không vượt quá ngưỡng thông báo mà tài liệu đó đưa ra. Phản hồi cũng lưu ý rằng tất cả các đơn vị quân đội Nga phải rời khỏi lãnh thổ Belarus sau cuộc tập trận và “lệnh rút quân đang trong quá trình phối hợp”. Belarus cũng đã cung cấp đầy đủ thông tin về cuộc tập trận và mời các quan sát viên cũng như các hãng truyền thông từ 17 quốc gia đến theo dõi. Những lời mời này đã gửi đến cả ba quốc gia vùng Baltic ngày 9/2.
Tóm lại, theo quan điểm từ Belarus, có nhiều dấu hiệu cho thấy sẽ không có chiến tranh nổ ra giữa Nga và Ukraina trong bối cảnh có những đồn đoán rằng xung đột quy mô lớn là không thể tránh khỏi.
>>> Tình hình căng thẳng tại Ukraine hiện nay
Theo Báo Tin tức
Theo Tổng thống Mỹ Joe Biden, người đồng cấp Nga Vladimir Putin đã quyết định tấn công Ukraina, và việc này sẽ xảy ra trong thời gian tới.
" alt=""/>Khủng hoảng Ukraine dưới góc nhìn từ Belarus![]() |
Ngay từ đầu, nhiều người coi thỏa thuận kỳ lạ này là đáng ngờ. Nguồn: vashurok.ru |
Những sản phẩm này được RAC trao đổi với người bản xứ (người Aleuts, người Eskimos, thổ dân da đỏ) hoặc thu được từ những cuộc thám hiểm, săn bắn của chính họ. Không có tài nguyên thiên nhiên nào khác trên lãnh thổ rộng lớn, trải dài 1,5 triệu dặm vuông, được khai phá trong suốt bảy thập kỷ thuộc quyền sở hữu của Nga. Vào giữa thế kỷ 19, hoạt động thương mại đã không còn mang lại lợi nhuận như trước vì thế giới động vật ở Alaska đã bị nghèo đi đáng kể.
Mỹ không muốn mua Alaska
Ý tưởng bán Alaska cho Mỹ nảy sinh trong Chiến tranh Crưm và dưới ảnh hưởng trực tiếp của nó. Theo giới cầm quyền Nga lúc đó, Anh - nước có tài sản ở Canada tiếp giáp với Alaska từ phía Đông, có thể dễ dàng chiếm vùng đất này bất cứ lúc nào. Nga không có kinh phí để phát triển Alaska, đặc biệt là vào những năm 1860, Nga chiếm giữ Vùng Amur và Vùng nguyên sơ Viễn Đông từ Trung Quốc, đồng thời bắt đầu chinh phục Trung Á, và những vùng lãnh thổ này được Nga coi là ưu tiên và hứa hẹn cho việc thuộc địa hóa.
Để không tăng cường sức mạnh cho Anh - nước được coi là đối thủ địa chính trị chính của Nga, Nga đã quyết định bán Alaska cho Mỹ, nước mà Nga có quan hệ hữu nghị. Việc bán Alaska vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi và bất bình trong dư luận Mỹ. Đại diện của giới cầm quyền và doanh nghiệp Mỹ, những người không muốn mua Alaska, đã có những lo ngại liên quan đến chi phí phát triển và duy trì một vùng rộng lớn và không có người ở như vậy.
Chỉ đến năm 1848, Mỹ mới tiếp quản, do hậu quả của cuộc chiến với Mexico, nước này vẫn cần thuộc địa. Ngoài ra, vào năm 1865, một cuộc nội chiến tàn khốc vừa kết thúc, đã cướp đi sinh mạng của 600.000 người Mỹ và gây ra những thiệt hại to lớn về vật chất. Công cuộc tái thiết chính trị và kinh tế xã hội của các bang miền Nam bắt đầu, thu hút mọi sự chú ý của các chính trị gia Mỹ. Những người phản đối việc mua Alaska chỉ ra những mất mát ở đó mà Nga phải trả giá và đưa ra những lập luận hợp lý rằng, trong trường hợp mua lại Alaska, những mất mát đó sẽ do Mỹ gánh chịu.
Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ Andrew Johnson và Ngoại trưởng William Seward đã ủng hộ việc mua lại Alaska. Ngày 30/3/1867, tại Washington, một thỏa thuận về việc bán Alaska mà phía Nga do phái viên - Nam tước Eduard von Stekl đại diện, đã được ký kết. Mỹ cam kết trả cho thương vụ mua lại này 7,2 triệu USD. Số tiền này đã được chuyển vào tài khoản của Nga tại các ngân hàng châu Âu. Tính theo giá vàng năm 2009, con số này lên tới 108 triệu USD. Giá mua cũng có vẻ quá cao đối với nhiều người ở Mỹ.
Mặc dù tất cả bất động sản RAC ở Alaska đã chuyển sang quyền sở hữu của Mỹ, nhưng tổng giá trị của nó thấp hơn đáng kể so với giá chuyển nhượng. Theo các đối thủ của Mỹ trong thỏa thuận, phần còn lại của Alaska không có giá trị kinh tế. Đầu thế kỷ 19, Mỹ đã mua lại Louisiana từ Pháp - một khu vực rộng lớn ở phía tây Mississippi - với số tiền cao hơn tính theo đơn vị diện tích, nhưng Louisiana có khí hậu tốt hơn và thích hợp cho phát triển nông nghiệp, trong đó có thành phố New Orleans ước tính khoảng 10 triệu USD vào năm 1803.
Hiệp ước mua bán Alaska được Tổng thống Mỹ ký ngày 28/5/1867. Theo Hiến pháp Mỹ, nó đã được đệ trình lên Thượng viện để phê chuẩn. Một ý kiến sơ bộ về thương vụ này đã được đưa ra bởi Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, vốn bị chi phối bởi đại diện của các tiểu bang phía Đông, những người không quan tâm đến thương vụ này và có ý kiến ngược chiều. Những người phản đối việc mua bán Alaska nói Mỹ đã bị người Nga lừa. Trong khi đó, ở Nga, người ta thực sự coi thương vụ này rất hời, vì theo lệnh của Hoàng đế Alexander II, Nam tước Stekl có quyền giảm giá; trong trường hợp người Mỹ mặc cả, giá bán Alaska 5 triệu USD.
![]() |
Alaska cần nhiều tiền để xây dựng hạ tầng cở và duy trì môi trường. Nguồn: vashurok.ru |
Mua lại Alaska thiệt nhiều hơn lợi?
Thực tế thú vị là ở Mỹ, thỉnh thoảng vẫn có tranh luận là cuối cùng Mỹ được hay mất trong vụ mua Alaska? Mặc dù thực tế là vào cuối thế kỷ 19, người ta đã phát hiện những mỏ vàng lớn, và trong thế kỷ 20 là những mỏ dầu, nhưng theo nhiều người, việc mua Alaska vẫn khiến Mỹ bị thua thiệt.
Tổng chi tiêu của Mỹ cho việc phát triển các vùng lãnh thổ, quốc phòng, trợ cấp cho người định cư, đặc quyền đối với dầu mỏ và các công ty khác, trợ cấp và lợi ích cho cộng đồng lớn dân bản địa, trong một thế kỷ rưỡi vượt quá thu nhập ròng mà Mỹ nhận được từ Alaska. Một nỗ lực để chứng minh điều này đã được nhà kinh tế học Michael Powell chỉ ra trong bài báo "Làm thế nào Alaska trở thành kẻ ngấu nghiến các quỹ liên bang", đăng trên The New York Times ngày 18/8/2010.
Lục lại lịch sử, người ta thấy có nhiều sự thật thú vị về cách Alaska được bán, liên quan đến cả hai bên. Thứ nhất, bản thân thỏa thuận đã được soạn thảo theo một cách kỳ lạ, theo đó, các vùng đất được bán không phải nhân danh Đế quốc Nga, mà là do Nam tước Eduard Stekl.
Ngoài ra, có một giả thuyết nhưng chưa được chứng minh là Nam tước Stekl đã chi tổng cộng 144.000 USD để hối lộ các thành viên của Ủy ban và các thượng nghị sĩ (có thể được khấu trừ vào số tiền Nga nhận được cho bán Alaska). Kết quả là Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu chuẩn thuận với đúng một nửa số thượng nghị sĩ đã bỏ phiếu tán thành thỏa thuận mua bán Alaska, đủ để phê chuẩn.
Giờ đây, người Mỹ phải trả giá đầy đủ cho sự lựa chọn mà họ đã từng đưa ra - theo các nghiên cứu nội bộ, họ chi tiêu cho khu vực này nhiều gấp đôi số tiền kiếm được và thu về cho ngân sách. Ở đây, thiên tai xảy ra thường xuyên hơn những vùng khác nên cần nhiều tiền hơn để xây dựng đường sá. Trong khi đó, tiền thu về từ khai thác tài nguyên thiên nhiên phần lớn lại thuộc về cư dân địa phương. Alaska đẹp đẽ bề ngoài thực sự phải chịu nhiều vấn đề về môi trường và phải “bơm tiền” thường xuyên.
Khu vực rộng lớn chịu ảnh hưởng chủ yếu từ hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên của địa phương. Các nhà khoa học tin rằng đồng, Selen và các chất khác xuất hiện trong khí quyển do khai thác khoáng sản “lộ thiên” sẽ bắt đầu tích tụ trong các sinh vật địa phương các loài chim và động vật dần dần góp phần gây ra sự tuyệt chủng của các loài quý hiếm. Việc mua Alaska theo đúng nghĩa đen là bị ép buộc đối với Mỹ, nước không hào hứng với điều đó cho lắm. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng lúc đó, Nga đã từ chối rất nhiều đề xuất từ Anh sẵn sàng mua Alaska với số tiền gấp 3 lần số tiền mà Mỹ cuối cùng đã trả cho Nga để mua Alaska.
>>>Xem thêm tin quốc tế trên báo VietNamNet
Theo VOV
Sau Pie Đại đế, nước Nga bắt đầu có sức ỳ, và sức ỳ đó đã đẩy quốc gia này tụt dốc mà tín hiệu đầu tiên là việc bán vùng đất Alaska cho Mỹ.
" alt=""/>Người Mỹ vẫn hối hận vì đã mua Alaska