Suy thận khiến cơ thể bị “ngộ độc” liên tục từ bên trong. Cách tốt nhất để đừng suy thận là bảo vệ trái (quả) thận khi nó còn khỏe.Với khoảng 2 triệu đơn vị nhỏ li ti có tên là cầu thận, nhiệm vụ chính của trái thận là lọc máu bằng cách thải phế phẩm trong máu qua đường tiểu và giữ lại cho cơ thể chất còn dùng được. Nếu vì lý do nào đó, chẳng hạn như chấn thương, viêm tấy, xuất huyết, bội nhiễm… khiến phần này không thể vận hành như mong muốn thì các chất thải như urê, creatinin, axít uric… tích lũy trong máu rồi vượt quá định mức bình thường. Suy thận khi đó thành hình. Lúc này, nạn nhân chỉ còn trông mong vào chiếc máy lọc thận.
Mối nguy chạy theo lời đồn
Thận thường bị đồng hóa với chức năng tiểu tiện. Đúng nhưng chỉ phản ánh một phần rất nhỏ về khả năng đa dạng của trái thận. Thông qua chức năng bài tiết phế phẩm và tái hấp thu dưỡng chất, thận không ngừng lọc máu và điều chỉnh lượng nước trong cơ thể. Bên cạnh đó, thận tham gia tiến trình biến dưỡng sinh tố D để chất vôi nhờ đó ở lại trong mô xương thay vì thất thoát qua đường tiểu. Thận đồng thời phóng thích nhiều nội tiết tố quan trọng như erythropoetin để tạo hồng cầu, renin để điều chỉnh huyết áp… Chính vì thế mà bệnh thận không chỉ dẫn đến rối loạn chức năng tiểu tiện mà còn mở ngỏ cho cao huyết áp, thiếu máu, bệnh gút…!

|
Lạm dụng rượu bia là một trong những yếu tố dẫn đến suy thận Ảnh: NLĐ |
Có thể nói, bối cảnh y tế ở xứ mình chính là các yếu tố đòn bẩy cho bệnh thận nhưng lại ít khi được lưu ý đúng mức. Đó là: Viêm cầu thận cấp không được điều trị đến nơi đến chốn, phần lớn ở trẻ con vùng sâu, vùng xa; đái tháo đường không được phát hiện vì thiếu biện pháp tầm soát hoặc tuy đã biết nhưng không được điều trị đúng bài bản; lạm dụng thuốc giảm đau do tự chẩn đoán không cần thầy thuốc lại thêm mua thuốc bất cần toa; đáng báo động là tình trạng bệnh nhân thay vì dùng thuốc đặc hiệu lại chạy theo lời đồn kiểu “uống cây thuốc gì đó hết luôn bệnh đái tháo đường”.
Bệnh thận ít khi có dấu hiệu báo động trước khi đi đến giai đoạn suy thận, hay nếu có lại mơ hồ khiến bệnh nhân và thậm chí cả một số thầy thuốc cũng thờ ơ với trái thận. Quả là đáng tiếc vì việc kiểm soát chức năng thận lại tương đối đơn giản với phương tiện chẩn đoán hiện nay.
Tự mình hại thận
Thận không vô cớ bỗng suy trong ngày một ngày hai. Trái lại, đó thường là hậu quả do việc đối xử không công bằng với trái thận, thể hiện qua nếp sinh hoạt:
- Mạnh miệng với rượu bia, thuốc lá.
- Dùng thuốc giảm đau thường hơn cơm bữa.
- Không theo dõi huyết áp định kỳ. Không điều trị đến nơi đến chốn mà chỉ dùng thuốc theo kiểu mỗi tháng vài ngày.
- Quá hạp khẩu với chất đạm động vật trong chế độ dinh dưỡng thường ngày. Tự đầu độc bằng phốt-phát trong nước ngọt có gaz, thịt xông khói, lạp xưởng, sữa đặc có đường…
- Ăn quá mặn mà quên uống nước cho đủ trong bữa ăn, trong giờ làm việc; không uống bù nước khi đổ mồ hôi. Uống nước không đủ 2,5 lít/ngày vì định kiến uống nhiều hại thận hoặc vì sợ tiểu đêm.
- Không tầm soát đường huyết và mỡ máu. Đừng quên 25% suy thận là di chứng của bệnh đái tháo đường, 40% là do xơ vữa mạch máu. Béo phì nhưng không chịu vận động để giảm cân.
Biết là nếu không may mất đi một trái thận thì người ta vẫn có thể sống đến cuối đời với trái thận còn lại nhưng nói thế không có nghĩa là ỷ y theo kiểu mất một còn một. Trái lại, hễ thận suy thường suy cả hai. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay! Ai chưa biết suy thận khổ đến thế nào xin thử hỏi người phải vài ngày lọc thận một lần. Bên cạnh gánh nặng tài chính, lọc thận chỉ là giải pháp chữa cháy. Ấy thế mà khi bàn chuyện phòng bệnh, chẳng mấy ai nghĩ đến trái thận một đời tận tụy.
Ai nên khám thận?
Nên khám thận khi phát hiện các dấu hiệu dưới đây:
- Đau lưng âm ỉ ở vùng bẹ sườn dù không vận động nặng. Cơn đau quặn lan xuống bọng đái dù không mắc tiểu. Tiểu ra máu.
- Nặng mí mắt khi thức dậy. Mắt quầng thâm dù ngủ đủ. Phù mắt cá dù ngồi yên nhiều giờ. Tê bàn tay, bàn chân.
- Biếng ăn kéo dài. Buồn nôn không liên quan đến bữa ăn. Hôi miệng.
- Đau đầu sau vài giờ làm việc. Mệt mỏi dù không lao tâm lao lực.
- Ngứa ngoài da dù đã dùng thuốc chống dị ứng. Rụng tóc, gãy móng tay.
Bác sĩ Lương Lễ Hoàng
(Theo Người lao động)
" alt=""/>Đừng đối xử 'tệ' với thận!
Đột quỵ não (stroke) hoặc cơn tai biến mạch máu não (cerebrovascular accident) do mất đột ngột lưu lượng máu tới não (chảy máu não hoặc tắc mạch não) dẫn đến giảm, mất chức năng hoặc chết các tế bào não, là nguyên nhân gây liệt, rối loạn ngôn ngữ, mất cảm giác, trí nhớ, hôn mê và có khả năng gây tử vong.Đột quỵ là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ hai trên thế giới sau ung thư, đứng hàng đầu về tàn phế ở người trưởng thành. Hàng năm ở Mỹ có khoảng 700.000 - 750.000 bệnh nhân mới và tái phát, chi phí 30 tỉ USD cho điều trị nội trú và phục hồi chức năng.
 |
Thể dục đều đặn |
Tại Pháp, 12% số ca tử vong ở người già do nguyên nhân đột quỵ não, đứng hàng đầu trong các nguyên nhân tử vong. Tỉ lệ mới mắc đột quỵ ở Mỹ là 135/100.000 dân, ở Pháp là 145/100.000 dân. Tỉ lệ đột quỵ tính toàn châu Âu, số người bị đột quỵ lần đầu tiên trong khoảng 141-219/100.000 dân.
Ở châu Á, theo Hiệp hội Thần kinh các nước Đông Nam Á, tỉ lệ mới mắc đột quỵ não: Nhật Bản từ 340 - 523/100.000 dân; Trung Quốc 219/100.000 dân; Israel 140/100.000 dân; Ấn Độ 13/100.000 dân; Mông Cổ 8/100.000 dân; Sri Lanka 29/100.000 dân; Việt Nam 161/100.000 dân (Lê Đức Hinh, 1998).
Dự kiến đến năm 2020, đột quỵ não là một trong bốn bệnh hàng đầu dẫn đến tử vong. Ở Việt Nam, tỉ lệ mắc bệnh đột quỵ não đang gia tăng ở mức đáng lo ngại ở cả hai giới và các lứa tuổi. Nguy cơ xảy ra đột quỵ gia tăng theo tuổi, tăng gấp đôi cứ mỗi 10 năm sau 55 tuổi, xấp xỉ 28% đột quỵ xảy ra dưới 65 tuổi. Nguyên nhân chủ yếu của đột quỵ não là tăng huyết áp.
Các thể đột quỵ não
Đột quỵ não gồm hai thể bệnh chính: chảy máu não và thiếu máu não cục bộ. Theo thống kê, đột quỵ thiếu máu não chiếm khoảng 80 - 85%, đột quỵ chảy máu não chiếm từ 10 - 15%. Quan niệm đột quỵ não chỉ là cách kết thúc cuộc đời của người già nay đã lỗi thời.
Từ những năm của thập kỷ 80 trở lại đây, tỉ lệ tử vong ở các nước phát triển đã giảm nhờ chẩn đoán sớm và với các phương tiện hồi sức tích cực, tổ chức thành các đơn vị đột quỵ não cũng như các trung tâm đột quỵ não đã điều trị có hiệu quả bệnh.
Mặt khác, nhờ hiểu biết cơ chế bệnh sinh, có các biện pháp chống yếu tố nguy cơ trong cộng đồng có hiệu quả nhất là điều trị bệnh tăng huyết áp, nên tỉ lệ mới mắc ở các nước phát triển đã giảm đáng kể ở Anh, và các nước Bắc Âu. Từ các số liệu của Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra nhận xét: đột quỵ não là bệnh hoàn toàn có thể dự phòng có kết quả bằng các biện pháp mang tính tổng hợp.
Các biện pháp dự phòng đột quỵ não nhằm ba mục đích: phòng ngừa bị bệnh, dự phòng tái phát và điều trị củng cố. Nội dung chính bao gồm:
- Khai thông sớm các trường hợp hẹp động mạch cảnh trong bằng các biện pháp phẫu thuật hoặc can thiệp từ bên ngoài.
- Giảm dần các yếu tố nguy cơ nguyên nhân mạch máu (tăng huyết áp, tăng cholesterol, kiểm soát tốt bệnh đái tháo đường, bỏ hút thuốc lá) để ngăn chặn sự tạo thành các mảng vữa xơ động mạch.
- Điều trị chống kết tập tiểu cầu để ngăn chặn sự tạo thành mảng vữa xơ động mạch mới và các biến chứng huyết khối vữa xơ động mạch do đứt vỡ các mảng này.
Các biện pháp phòng ngừa
- Chống tăng huyết áp để làm giảm các biến chứng về tim mạch, thận và tỉ lệ tử vong. Tích cực sử dụng các biện pháp phòng chống thừa cân và béo phì, ăn nhạt, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao. Sử dụng thuốc hạ huyết áp đều đặn và đúng cách theo hướng dẫn của thầy thuốc.
- Cai thuốc lá triệt để vì hút thuốc làm nguy cơ gây vữa xơ động mạch và bệnh mạch vành tăng gấp đôi, nhất là ở những người hút trên 40 điếu mỗi ngày. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: nguy cơ đột quỵ não sẽ dứt hẳn sau một vài năm ngừng hút thuốc lá.
- Điều chỉnh rối loạn lipid máu, trong đó đặc biệt làm giảm cholesterol. Cơ chế sinh bệnh vữa xơ động mạch chưa được hiểu biết hoàn toàn, nhưng tổn thương và hậu quả rối loạn chức năng của các tế bào nội mạc mạch máu là rất sớm. Có nhiều nghiên cứu lớn đã chỉ ra rằng tăng cholesterol là một yết tố nguy cơ độc lập của đột quỵ não.
- Thực hiện chế độ ăn muối và kali hợp lý. Ăn mặn làm tăng huyết áp. Đối với các nước nhiệt đới, chỉ nên giảm muối vừa phải do mất muối qua mồ hôi. Chế độ ăn ít kali làm tăng nguy cơ đột quỵ do tăng huyết áp. Nên bổ sung kali bằng ăn thêm hoa quả và rau tươi.
Mức độ ăn kiêng được khuyến cáo chung là không quá 2,4g natri mỗi ngày (tương đương 6g muối ăn natriclorua). Những bệnh nhân tăng huyết áp nếu giảm bớt lượng muối ăn khoảng 40mg/ngày thì sẽ giảm được nguy cơ tăng huyết áp hoặc biến chứng tim mạch.
- Cai rượu, người ta thấy việc sử dụng rượu mức trung bình có thể cải thiện sức khỏe một cách thật sự. Tuy nhiên, một số người nghiện rượu thường gặp phải những biến chứng nặng do lạm dụng rượu. Nghiện rượu nặng (sử dụng nhiều hơn 60g/ngày) tăng nguy cơ đột quỵ. Sử dụng mức độ trung bình (12 - 24g/ngày) giảm nguy cơ đột quỵ. Sử dụng rượu ít hơn 12g/ngày thì nguy cơ thấp nhất. 10g rượu tương đương với 330ml bia hoặc 100ml rượu vang hoặc 30ml rượu mạnh.
- Tập thể dục để làm giảm thấp các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch. Những người đàn ông thường xuyên hoạt động đủ mạnh để ướt đẫm mồ hôi là đã giảm 20% nguy cơ đột quỵ. Tập thể dục mức độ trung bình, chẳng hạn như đi bộ nhanh, đạp xe đạp hoặc bơi lội ít nhất 30 phút/lần/ngày, 5 ngày/tuần là hữu ích.
Tập thể dục đều đặn có thể góp phần cải thiện đường máu, giảm tỉ lệ kháng insulin, giảm cân, cải thiện một số thông số lipid, hạn chế tiến triển tổn thương vữa xơ động mạch và cải thiện huyết áp. Tập thể dục có tác dụng làm giảm HA tâm thu, giảm béo phì. Thể dục làm giảm tỉ lệ nhồi máu cơ tim do đó cũng làn giảm tỉ lệ đột quỵ não.
- Chống béo phì, nhất là béo bụng vì đó là nguy cơ lớn nhất của đột quỵ. Về yếu tố nguy cơ của đột quỵ, nghiên cứu sức khỏe dinh dưỡng đã xác định rằng gia tăng chỉ số khối cơ thể = [trọng lượng (kg)] chia cho [chiều cao (m)]2, nếu > 27kg/m2 và tăng cân nặng sau 18 tuổi làm tăng yếu tố nguy cơ của nhồi máu não.
- Chống bệnh đái tháo đường để làm giảm nguy cơ đột quỵ não. Nghiên cứu ở Framinham đã xác định rằng nguy cơ đột quỵ cao hơn trong những bệnh nhân đái tháo đường so với những bệnh nhân không đái tháo đường. Khi một bệnh nhân đái tháo đường bị đột quỵ thì hậu quả hiểm nghèo hơn nhiều so với bệnh nhân không bị đái tháo đường. Lý do của hậu quả này là do bệnh nhân bị đái tháo có vòng tuần hoàn nghèo nàn.
- Phát hiện và điều trị sớm các bệnh lý về tim như: rối loạn nhịp (đặc biệt là rung nhĩ), tổn thương van tim, các tổn thương cơ tim đặc biệt là nhồi máu mới, nhồi máu cũ và bệnh lý cơ tim.
- Sử dụng thuốc khi cần thiết theo chỉ định của bác sĩ.
Theo Sức khỏe đời sống" alt=""/>Các biện pháp dự phòng đột quỵ não