- Bảng xếp hạng đại học Webometrics đợt 2 năm 2016 vừa được công bố cuối tháng 7 vừa qua. Ngay sau khi có kết quả, trong nhiều ý kiến quan tâm, một số cho rằng đây chỉ đơn thuần xếp hạng các website đại học.Thực tế, những ý kiến lo ngại về giá trị của xếp hạng này cũng đã xuất hiện từ một vài năm nay. Là người theo dõi sự ra đời của bảng xếp hạng này ngay từ những ngày đầu ra đời, xin được tổng hợp các tiêu chí đánh giá, sự biến đổi của chúng cũng như các nhận định của giới chuyên môn về ý nghĩa và cách thức sử dụng xếp bảng xếp hạng này.
Bảng xếp hạng đầu tiên về website đại học
Những lời chỉ trích webometrics chẳng qua chỉ là một xếp hạng website đại học thực ra là thừa; bởi tổ chức này chưa bao giờ không thừa nhận họ chỉ là một xếp hạng về website đại học cả. Bản thân tên gọi của Webometrics cũng đã phản ánh điều này: web xuất phát từ từ website và metrics nghĩa là các phép đo.
Mục tiêu xuyên suốt của những người khởi xướng ra bảng xếp hạng webometrics kể từ lần đầu tiên công bố năm 2004 cho đến nay là nâng cao chất lượng website; minh bạch hoá thông tin, chia sẻ tri thức; qua đó góp phần nâng cao chất lượng đại học.
Chất lượng Website theo cách tiếp cận của Webometrics không nên hiểu theo nghĩa chất lượng thẩm mỹ của website theo nghĩa thông thường, mà cần phải hiểu rộng hơn theo nghĩa tài nguyên online liên quan đến hoạt động của một trường đại học bao gồm 4 thành tố: (1) Mức độ xuất hiện (Presence): số lượng các website con (subwebsites) tương ứng với website chủ của một trường; (2) Mức độ ảnh hưởng (Impact): số lượng backlink từ các website khác trỏ về website của trường đang xem xét; (3) Mức độ mở (openess): số lượng file định dạng pdf, word, excel được công bố trên website ; và (4) Sự xuất sắc: dựa trên công trình khoa học công bố trên tạp chí thuộc danh mục Scopus. |
Sự tương quan với các xếp hạng đại học quốc tế khác
Webometrics ra đời năm 2004 và ngay lập tức gây được sự chú ý của giới chuyên môn; mặc dù tại thời gian đó, cũng có khá nhiều bảng xếp hạng đại học toàn cầu uy tín khác ra đời như Xếp hạng đại học của Đại học Giao Thông Thượng Hải, Trung Quốc (ra đời năm 2003); Xếp hạng đại học của Đại học Leiden, Hà Lan (ra đời năm 2007- ở Việt Nam, bảng xếp hạng này không được phổ biến lắm) và Xếp hạng Đại học của Tạp chí Times và Tổ chức QS (ra đời năm 2004 – đến 2010, Times và QS tách riêng để tự làm bảng xếp hạng cho riêng mình).
Sở dĩ thu hút được sự chú ý là bởi khác với các bảng xếp hạng còn lại chỉ đưa ra được thứ hạng từ 400-500 đại học hàng đầu thế giới, Webometrics khi mới ra đời, ngay lập tức đã công bố xếp hạng lên tới hơn 10,000 trường, trong đó bao gồm rất nhiều trường đến từ khu vực thế giới thứ 3 – vốn không bao giờ nghĩ có thể lọt được vào một bảng xếp hạng đại học toàn cầu nào.
Sở dĩ làm được điều này là bởi, khác với các bảng xếp hạng còn lại có sử dụng kết hợp phương pháp thu thập dữ liệu bằng minh chứng từ các trường, hoặc survey, Webometrics tiến hành khâu thu thập dữ liệu hoàn toàn trên mạng và nhờ vậy, khắc phục được điểm yếu cố hữu của các bảng xếp hạng nói chung: phạm vi hẹp.
So sánh bảng xếp hạng webometrics với các bảng xếp hạng khác thậm chí còn trở thành đề tài thảo luận cho giới nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục đại học.
Tiêu biểu trong số đó là một công trình nghiên cứu được 4 nhà khoa học Châu Âu thực công bố năm 2010 trên tạp chíScientometrics (trắc lượng khoa học)- xem chú thích ở cuối bài.
Kết quả cho thấy, mặc dù có tiêu chí đánh giá khác nhau và cách thức thu thập dữ liệu khác nhau, vẫncó những sự tương đồng nhất định giữa Webometrics với các bảng xếp hạng còn lại nói chung; mặc dù nếu so sánh theo từng cặp thì cặp Webometrics và xếp hạng của Times – QS là có sự khác biệt lớn nhất.
Hướng tới một xếp hạng đại học có độ phủ toàn cầu
Mặc dù có mục đích ban đầu thuần tuý chỉ là bảng xếp hạng website đại học, nhưng nhìn một cách tổng thể qua thời gian, có khá nhiều yếu yếu tố cho thấy Webometrics đã và đang hướng tới một bảng xếp hạng đại học thực thụ.
Đầu tiên là một đặc điểm “đậm chất giáo dục” (đã được điểm qua ở trên) đó là độ phủ lớn - lên tới hơn 10,000 trường đại học, phản ánh đúng xu hướng đại chúng hoá giáo dục đại học trong thời đại ngày nay, thay vì chỉ tập trung vào một vài trăm trường đại học tinh hoa. Đây là điều hầu hết các bảng xếp hạng toàn cầu khác không làm được.
Bên cạnh đó, cũng không thể không nhắc lại ý nghĩa mà Webometrics luôn chủ trương theo đuổi, đó làcông khai thông tin, trong đó bao gồm cả các tài liệu học thuật trên mạng để mọi người có thể truy cập dễ dàng.
Chúng ta đều biết, trong mấy chục năm trở lại đây, quá trình thương mại hoá, dịch vụ hoá giáo dục đại học một mặt đem lại hệ sinh thái giáo dục đại học đa dạng hơn, giúp người học có nhiều lựa chọn và cơ hội học tập hơn; nhưng mặt khác nó lại biến nhiều sản phẩm tri thức (sách, công trình khoa học), vốn là hàng hoá công (ai cũng có thể tiếp cận được) thành hàng hoá tư (chỉ ai trả tiền mới tiếp cận được).
Trong bối cảnh đó, nỗ lực của Webometrics là rất đáng được ghi nhận.
Cuối cùng, không thể không kể đến việc liên tục cập nhật, cải tiến các chỉ số, quy trình đo lường, nguồn lấy dữ liệu của những người thực hiện Webometrics nhằm cung cấp một bảng xếp hạng tin cậy hơn, chính xác hơn.
Đơn cử gần nhất về sự cải tiến này là việc thay đổi nguồn lấy dữ liệu từ Google sangGoogle Scholar(trang web riêng biệt của Google dành riêng cho các ấn phẩm khoa học) đối với chỉ số Mức độ mở(openess).
Bằng thay đổi này, Webometrics đã loại bỏ được các yếu tố phi học thuật ra khỏi tính toán của mình, cụ thể: trước đây, với nguồn dữ liệu Google, một tài liệu hành chính – ví dụ đơn xin bảo lưu kết quả học tập của sinh viên nếu được thiết kế đúng cũng sẽ giúp trường đại học được tăng điểm cho chỉ số Openess; tuy vậy, với nguồn dữ liệuGoogle Scholar, phải là các công trình khoa học thực sự mới được tính điểm.
Sự thay đổi này cũng lý giải phần nào sự tụt hạng của các trường đại học (trong đó có khá nhiều đại học Việt Nam – xem Hình 1) ít hoặc không có văn hoá công bố công khai công trình khoa học trên các nguồn dữ liệu trực tuyến như Google Scholar hay Researchgate.

Nghiên cứu sinh Phạm Hiệp
" alt=""/>Webometrics: từ xếp hạng website đến xếp hạng đại học
Mặc dù "an cư" đã lâu, thế nhưng hàng ngàn khách hàng đã mua căn hộ vẫn không biết đến ngày nào mới nhận được giấy chủ quyền mà chủ đấu tư cam kết. |
Khu đất quy hoạch làm công viên của chung cư Khang Gia, quận Gò Vấp, TP.HCM bị bỏ hoang, nhếch nhác |
Cục Thuế TP.HCM vừa công bố danh sách 209 doanh nghiệp (DN) nợ thuế, trong đó có sự “góp mặt” của một số DN kinh doanh bất động sản. Đáng chú ý, đằng sau việc nợ thuế của chủ đầu tư là sự lo lắng của hàng ngàn khách hàng đã mua căn hộ, dù định cư đã lâu nhưng không biết đến ngày nào mới nhận được giấy chủ quyền!
Phập phồng vì mua… ki-ốt
Trong bảng “phong thần” của Cục Thuế TP, Công ty cổ phần Đầu tư - Phát triển địa ốc Khang Gia nợ 2,3 tỷ đồng tiền thuế năm 2016. Công ty này cũng là chủ của 2 dự án chung cư mà đến nay chưa có giấy chủ quyền.
Tháng 5-2014, Khang Gia bàn giao 338 căn hộ cho khách hàng tại chung cư Khang Gia Tân Hương (số 377 đường Tân Hương, quận Tân Phú). Hơn 3 năm trôi qua, cư dân nơi đây rơi vào trạng thái nhiều “không”: sàn cầu thang bộ là lối thoát hiểm không hoàn thiện, không giấy chủ quyền, không ban quản trị và một bộ phận không nhỏ sống trong nhà không phép! Số là, tại phần diện tích được được quy hoạch làm trung tâm thương mại và khu cộng đồng, Công ty Khang Gia lại xây dựng thành 61 căn hộ để bán! Chủ một căn nhà (yêu cầu giấu tên) tại tầng lửng đưa ra bộ hồ sơ mua bán, trong hợp đồng chủ đầu tư ghi là “mua bán ki-ốt”, “không được ở”.
Tuy nhiên, bên trong cái gọi là ki-ốt này được người mua thiết kế thành một căn hộ hoàn chỉnh: có một hoặc hai phòng ngủ, tùy theo sự bố trí của chủ nhà; có bếp, có nhà vệ sinh. Bên ngoài hành lang, mỗi căn đều có cửa và khóa riêng biệt, tất nhiên chỉ có một mục đích là ở, không buôn bán gì. “Nếu không để ở thì biết bán cái gì ở đây”, một người dân cư ngụ trong “căn ki-ốt” nói, đồng thời quả quyết chính quyền địa phương hứa hẹn “sang năm sẽ cho nhập hộ khẩu”. Điều đáng nói, tháng 8-2016, Thanh tra Sở Xây dựng TP.HCM đã kiểm tra và phạt chủ đầu tư 45 triệu đồng, đình chỉ thi công, buộc tháo dỡ toàn bộ phần công trình sai thiết kế. Việc xây dựng vi phạm diễn ra tại tầng trệt, tầng lửng và tầng 2 của chung cư; chủ đầu tư tự ý chuyển đổi công năng phần diện tích thương mại, dịch vụ, nhà trẻ và hạng mục phụ trợ hồ bơi để xây dựng thành 61 căn hộ với nhiều mức diện tích khác nhau, trong đó có 2 căn hộ chỉ rộng 15m2/căn. Với thực trạng nêu trên, sự việc trở nên phức tạp, câu chuyện cấp chủ quyền căn hộ kéo dài không biết đến bao giờ!
Tại dự án Khang Gia Gò Vấp cũng xảy ra tình trạng đến nay vẫn chưa có ban quản trị, giấy chủ quyền chỉ cấp cho block tái định cư, 2 block còn lại với gần 600 căn hộ thương mại thì đến nay vẫn phải chờ đợi. Tại khu vực đất nằm giữa 3 block, cỏ mọc xen lẫn với những trụ bê tông thi công dang dở, gạch đá ngổn ngang. Một cư dân tại đây cho biết, khu đất này là công viên của chung cư nhưng chủ đầu tư lại xây phòng tập gym, yoga… và thu tiền sử dụng dịch vụ. Khi cư dân phản đối, chủ đầu tư cho tháo và để lại hiện trạng nhếch nhác.
20 chung cư chưa có giấy chủ quyền
Qua rà soát các phản ánh tranh chấp, khiếu nại, Sở Xây dựng TP.HCM cho biết có 20 chung cư chủ đầu tư chậm thực hiện cấp giấy chủ quyền cho người mua căn hộ.
Điểm qua danh sách, có nhiều chung cư đã bố trí người dân cư ngụ hàng chục năm trời. Điển hình như chung cư Phúc Thịnh (số 341 đường Cao Đạt, phường 1, quận 5) do Công ty TNHH MTV Đầu tư - Xây dựng Trường Thịnh làm chủ đầu tư. Tuy đã bàn giao căn hộ từ năm 2005, nhưng việc cấp giấy chủ quyền đến nay vẫn chưa biết khi nào hoàn tất. Năm ngoái, cư dân Phúc Thịnh bị một phen lên ruột do chủ đầu tư đăng ký bán đấu giá công ty.
Bị cư dân phản ứng quyết liệt, chủ đầu tư có văn bản hứa hẹn sẽ tiến hành cấp giấy chủ quyền, nhưng đến nay sự việc vẫn chỉ là lời hứa. Nhiều chung cư khác cũng tương tự, đưa dân vào cư ngụ đã nhiều năm mà giấy chủ quyền vẫn bặt vô âm tín; như: chung cư Trương Đình Hội (phường 16, quận 8, do Công ty cổ phần Lê Minh M.C làm chủ đầu tư), chung cư Mỹ Viên (phường Tân Phú, quận 7, do Công ty TNHH Phát triển Phú Mỹ Hưng làm chủ đầu tư); chung cư Trung Đông (số 30 Trịnh Đình Thảo, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, do Công ty cổ phần Tư vấn đầu tư và phát triển Trung Đông làm chủ đầu tư)…
Quận Tân Phú là địa phương nổi cộm việc nhiều chủ đầu tư không tuân thủ các quy định của pháp luật về nhà ở, vấn đề nóng nhất là có 12 chung cư chưa cấp giấy chủ quyền, gây bức xúc cho cư dân. Quận phải phối hợp Sở Xây dựng làm việc với ban quản trị, ban quản lý, chủ đầu tư để giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện và những khó khăn trong quá trình vận hành nhà chung cư. Sở Xây dựng cũng cho biết đã giao các phòng nghiệp vụ rà soát, phân loại và tham mưu, để chuyển đến Sở Tài nguyên và Môi trường xem xét, giải quyết theo quy định.
Giải quyết rốt ráo việc cấp giấy chủ quyền cho cư dân cũng chính là tháo nút thắt quan trọng trong tranh chấp chung cư. Bên cạnh việc “kéo” ngân hàng ngồi lại với chủ đầu tư để tìm giải pháp, TP cũng cần xử lý nghiêm minh đối với những chủ đầu tư chây ỳ, cố tình vi phạm trong việc xây dựng (là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc không cấp được giấy chủ quyền) để lập lại kỷ cương, vừa bảo vệ người mua nhà và đồng thời giảm thiểu các xung đột trong chung cư như lâu nay.
Theo SGGP
 Nhận nhà xong, bao lâu được cấp giấy chứng nhận?Kể từ ngày giao nhà cho người mua hoặc từ thời điểm bên mua đã thanh toán đủ tiền, chủ đầu tư dự án nhà chung cư có trách nhiệm làm thủ tục cấp giấy chứng nhận cho người mua. " alt=""/>Hàng ngàn căn hộ chờ cấp giấy chủ quyền
- Tin HOT Nhà Cái
-
|