Không chỉ mang lại lợi ích chính của loại máy quay bỏ túi giúp người dung linh động khi di chuyển mà Picsio GC-FM còn mang thiết kế bóng bẩy, hấp dẫn với 3 màu xanh, hồng và đen.
Máy sử dụng cảm biến 8 megapixel và không hỗ trợ bộ nhớ trong, hình ảnh thu được ghi trực tiếp nên thẻ nhớ ngoài định dạng SDHC. Tuy nhiên, nhà sản xuất cho biết máy sẽ không được phân phối kèm thẻ nhớ ngoài nên đây sẽ là một thiếu sót cho Picsio GC-FM bởi khi bạn mua máy thì cũng nhớ phải mua luôn một chiếc thẻ nhớ.
" alt=""/>JVC cũng có máy quay bỏ túiNgay từ đầu, hãng điện thoại Canada nổi tiếng thế giới này đã tuyên bố rất rõ ràng: chiếc BlackBerry Curve 8520 sẽ là dòng smartphone dành cho những người “chưa bao giờ có BlackBerry” và vì thế mẫu sản phẩm này sẽ có giá bán rất “dễ chịu” nhưng đổi lại nó sẽ không sử dụng mạng 3G mà thay vào đó là mạng EDGE.
Cùng với đó là chiếc BlackBerry này sẽ có những thay đổi theo hướng “quần chúng hóa” như trachball (viên bi, bánh xe điều hướng) sẽ được thay thế bằng “optical trachpad” (phím điều hướng cảm ứng quang học) và hệ thống các phím chơi media (nghe nhạc, xem phim) cũng được đưa ra ngoài và bố trí ở phần đỉnh máy.
![]() |
Viên bi điều hướng đã được thay thế bằng bàn di cảm ứng (trackpad). (ảnh: Techradar) |
Tuy vậy, tất cả những tính năng, giao diện của Curve 8520 này sẽ vẫn giống như những dòng BlackBerry khác và kể từ nay những chiếc BlackBerry đã trở nên thân thiện hơn với người dùng phổ thông.
Sản phẩm được thiết kế khá gọn gàng nhưng vẫn không kém phần cứng cáp và chắc chắn theo đúng đặc trưng của hãng.
RIM còn tuyên bố đây là chiếc BlackBerry mỏng nhất từ trước đến nay.
![]() |
Chiếc BlackBerry mỏng nhất từ trước đến nay. (ảnh: Techradar) |
Với thiết kế như vậy, RIM cũng đã tính đến việc giúp người dùng dòng điện thoại này của họ có thể dễ dàng đút túi quần giống như những chiếc di động thông thường mà không cần phải dùng đến một chiếc bao đựng đeo ở thắt lưng như trước.
Đây là một điểm “đáng yêu” nữa của chiếc BlackBerry này và thời gian để bạn lôi chiếc máy từ trong túi quần ra để đọc tin nhắn, email hay thực hiện cuộc gọi cũng ngắn hơn trước.
![]() |
Được trang bị bàn phím QWERTY đầy đủ, tuy khoảng cách các phím đã bị thu hẹp hơn một chút. (ảnh: Techradar) |
Tất nhiên, BlackBerry Curve 8520 không thể thiếu một bàn phím QWERTY đầy đủ. Nếuvới chiếc BlackBerry Bold, bàn phím của Curve 8520 hơi khó dùng hơn bởi khoảng cách các phím đã bị thu hẹp phục vụ cho việc giảm kích thước nhưng qua trải nghiệm thực tế, nó vẫn khiến người dùng hài lòng và không đến nỗi bực mình như khi phải dùng bàn phím QWERTY dạng kép (mỗi phím có 2 ký tự) của những chiếc BlackBerry Pearl.
![]() |
Màn hình QVGA 2,64 inch vẫn cho hình ảnh khá rực rỡ.(ảnh: GadgetReview) |
Khả năng chơi các file media trên Curve 8520 cũng khá xuất sắc. Tuy chỉ được trang bị màn hình 2,46 inch với độ phân giải 320 x 240 pixel, 65.000 màu theo chuẩn QVGA nhưng việc thưởng thức những đoạn video trên Curve 8520 cũng không đến nỗi nào.
Lướt qua những phím điều khiển trình chơi media trên đỉnh máy, người dùng sẽ cảm nhận được sự tinh tế của RIM dành cho những người lần đầu đến với BlackBerry. Chúng được làm bằng cao su nên khá êm ái, nhạy và dễ sử dụng ngay cả khi họ sử dụng trong… túi quần bởi các phím có kích thước lớn, khoảng cách rõ ràng và biểu tượng của phím được in nổi khá đậm trên mỗi phím.
![]() |
Hệ thống các phím chơi media đã được chuyển lên đỉnh máy. (ảnh: Techradar) |
Thông số quan trọng nhất ảnh hướng tới lượng máy ảnh bán ra trong thời đại kỹ thuật số từng là số triệu điểm ảnh. Bạn có thể thấy vô số quảng cáo từ những siêu thị lớn hay trên truyền hình đã ảnh hưởng đến người tiêu dùng thế nào khi mà nếu trao đổi về máy ảnh, câu đầu tiên họ hỏi sẽ là: Máy ảnh này mấy "chấm".
Khi công nghệ ảnh số phát triển cũng là lúc số điểm ảnh trở nên nổi trội hơn so với các thông số khác, và thông số này bắt đầu được quan tâm khi những người chụp ảnh đem ra so sánh máy phim của họ với khả năng hiển thị hỉnh ảnh của những cảm biến thuở ban đầu. Nhưng có một điều trớ trêu nho nhỏ, đó là kể cả khi so sánh như vậy, cũng khó có thể tìm được người nào đi vào các cửa hàng máy ảnh mua một cuộn phim Ektachrome hay Fujichrome và hỏi người bán hàng xem độ hạt của phim hay độ phân giải của phim là bao nhiêu. Liệu có bao nhiêu người chụp ảnh từng thực sự nhìn vào các thông số chi tiết in rõ ràng trên mỗi hộp phim?
![]() |
Cảm biến nhiều triệu điểm ảnh sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu như máy ảnh không có một hệ thống xử lý hình ảnh tương xứng với số điểm ảnh đó. Đây là bộ xử lý hình ảnh Expeed của Nikon D3x, có thể xử lý tốt 24,5 triệu điểm ảnh Full Frame ở tốc độ 5 khung hình/giây. |
Những ngày đầu
Khi công nghệ số phát triển, thông số độ phân giải đột nhiên trở nên vô cùng quan trọng. Một phần bởi độ phân giải của những máy ảnh số đầu tiên không được tốt cho lắm. Khi máy ảnh bắt đầu đạt tới ranh giới 1 triệu điểm ảnh, có cảm tưởng như công nghệ số đã bắt đầu một làn sóng mới. Trong ngành công nghiệp ảnh, các phương pháp tính toán độ phân giải của phim bắt đầu xuất hiện và nó cũng chẳng tồn tại lâu trước khi những so sánh về mặt lý thuyết của số điểm ảnh trên phim so với cảm biến được thể hiện trên ảnh in.
Ở giai đoạn này, thiết kế máy ảnh đã trải quả một kiểu trải nghiệm tự do chưa từng có trước đây. Không cần phải có những ngăn chứa phim, các nhà thiết kế có thể thoải mái tưởng tượng những mẫu máy ảnh đời mới sẽ như thế nào. Đó là cuối những năm 1990. Lúc này, hầu hết những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp vẫn chỉ đứng ngoài lề để xem máy ảnh số sẽ ra sao. Máy ảnh số thời đó chủ yếu cho giới khách hàng bình dân hay phục vụ các mục đích khoa học mà chưa tiến tới được tầm chuyên nghiệp.
Kể cả trong giai doạn sơ khai của cuộc cách mạng ảnh số này, cuộc chiến về số điểm ảnh cũng đã bắt đầu được khơi mào. Đầu tiên là 1 triệu điểm ảnh, rồi đến 2 triệu. Ở mức 2 triệu, bắt đầu xuất hiện những lời bán tán hay những câu hỏi đối với các nhà sản xuất, liệu 2 triệu điểm ảnh đã đủ cho hầu hết nhu cầu nhiếp ảnh hay chưa. Câu trả lời nhận được thời bấy giờ cũng tương tự như khi người ta hỏi Bill Gate về bộ nhớ cho máy tính bao nhiêu là đủ. Và câu trả lời đã trở nên nổi tiếng là "640K là đủ cho tất cả mọi người".
Thông số hoàn hảo
Tiếp thị một công nghệ mới không dễ dàng gì. Làm sao có thể thuyết phục những khách hàng tiềm năng về những lợi ích mà họ còn không biết có cần thiết không. Ai cũng có máy ảnh cả. Phim không rẻ, nhưng người ta sẵn sàng bỏ tiền cho việc mua và tráng ảnh, bởi lẽ in ảnh ở nhà cũng khó khăn hơn mà chất lượng lại không đẹp bằng. Internet vẫn chưa bị tràn ngập bởi Facebook và Flickr, thế giới vẫn còn đang trong giai đoạn kết nối quay số. Trong bối cảnh này, các bộ phận tiếp thị cần phải có một thứ gì đó thật dễ hiểu, dễ nhớ và là yếu tố có thể so sánh một cách trực tiếp và ngay lập tức. Đó chỉ có thể là một con số. Đột nhiên trong hàng loạt các thông số rối rắm kia, số triệu điểm ảnh nổi lên như một chiếc cọc cứu sinh.
Độ phân giải từ đó đã dần leo leo thang. Từ 2 triệu thuở ban đầu lên tới hơn 20 triệu điểm ảnh ngày nay. Dù đâu đó vẫn còn có những so sánh với phim, nhưng hầu như những tranh luận kiểu này đang ngày càng biến mất. Giờ đây, nếu bạn muốn chụp phim là bởi vì bạn thích nó, bạn nghĩ là bạn sẽ có một bức ảnh đẹp hơn, vì thế mà bạn chọn nó. Chẳng còn ai tranh luận xem ảnh phim và ảnh số công nghệ nào thăng thế nữa. Cuộc chiến giờ đã kết thúc. Các nhà sản xuất như Kodak hay Fujifilm đã làm ra những cuộn phim chất lượng tuyệt với và chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng rằng họ sẽ vẫn tiếp tục lộ trình này, bởi lẽ luôn có nhiều nhiếp ảnh gia vẫn gắn bó và vẫn muốn theo đuổi sự nghiệp chụp phim. Nhưng ngày nay, cảm biến số đã đủ tốt để chứng tỏ hình ảnh của công nghệ nào xuất sắc hơn trong cuộc tranh luận đầy ý nghĩa này.
Ngày nay, đã có quá thừa máy DSLR đủ số điểm ảnh cần thiết để in ra bất cứ kích cỡ ảnh nào. Các phiên bản từ 12 đến 24 triệu pixel chiếm nhiều nhất trên thị trường, tập trung vào giới chuyên nghiệp cũng như giới bán chuyên. Nếu bạn cẩn thận và tính toán kỹ hơn, bạn có thể thấy thực ra, độ phân giải như vậy vẫn chưa đủ khi in ảnh ra các kích thước lớn hơn và nghĩ rằng chắc để in ảnh ra to nữa thì vẫn cần phải tạo ra những máy ảnh nhiều triệu điểm ảnh hơn. Suy luận này cũng hợp lý, nếu như bạn chỉ nhìn một cách đơn giản vào độ phân giải nội tại. Vấn đề là độ phân giải nội tại này không phải lúc nào cũng bị hạn chế như vậy. Để tạo độ phân giải lớn hơn, người ta còn dùng đến khả năng nội suy.
Công nghệ nội suy
" alt=""/>Cuộc đua pixel nhường chỗ cho cuộc chiến ISO