"Sinh ra ở vùng quê Ninh Bình, cuộc sống đói khổ nên cả tuổi thơ chúng tôi chỉ mong ngóng đến ngày Tết”, Tiến sĩ mỹ học Nguyễn Thế Hùng - nguyên giảng viên trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, nói về Tết xưa. |
Tiến sĩ mỹ học Nguyễn Thế Hùng. |
Với ông, Tết là khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong năm, khi 5 anh em ông được xúng xính mặc quần áo mới. Trên mâm cơm xuất hiện đĩa thịt lợn - món ăn xa xỉ mà đứa trẻ nào sinh ra trong thời kỳ ấy cũng mơ ước.
“Gần Tết tôi thường rất háo hức bởi không chỉ có bánh chưng xanh mà hơn hết anh em tôi sẽ được gặp bố.
Khi ấy, ông đang làm phó hiệu trưởng trường ĐH Tài chính (Hà Nội). Mẹ con tôi vẫn ở quê.
Tết trong ký ức của tôi là những chiều 30, 5 anh em bồn chồn, ra cổng ngóng bố. Khoảnh khắc nghe tiếng xe đạp của bố lọc cọc về đến cổng, chúng tôi như vỡ òa vì hạnh phúc”, tiến sĩ Thế Hùng nhớ lại.
Ông Hùng kể, ngày ấy bố ông đạp xe gần 100 km về quê thăm vợ con. Suốt thời gian dài không có bóng dáng bố bên cạnh nên ngày Tết được bố ôm ấp, vỗ về với những đứa trẻ thực sự thiêng liêng.
Bữa cơm ngày Tết của gia đình nghèo tươm tất hơn với giò lụa, thịt lợn luộc, bánh chưng xanh nhưng có lẽ dư vị ngọt ngào hơn cả là món canh rau tập tàng.
“Tôi nhớ như in những buổi trưa ngày 28, 29 Tết, tôi còn bé loắt loắt nhưng chịu khó ra đồng hái rau tập tàng. Thứ rau dân dã đó gồm rau dền cơm, rau rệu, rau sam. Sau khi nhặt, rửa sạch sẽ, mẹ tôi lấy chút mỡ xào với hành rồi đổ rau vào nấu.
Bát canh chẳng có tôm hay thịt nhưng mang hương vị ngon ngọt, khó cưỡng. Nhà nào khá giả mới có bắp cải, su hào ăn Tết vì hai loại rau này thuộc hàng đắt đỏ. Canh măng, bóng, mọc, súp lơ là những đồ quá xa vời”, người đàn ông này kể tiếp.
Năm 7 tuổi, gia đình tiến sĩ Thế Hùng chuyển ra Hà Nội. Lúc này, với cậu học trò nhỏ, Tết là được nghỉ học dài ngày, được đi chơi và mừng tuổi.
 |
Phút giây thảnh thơi bên khung đàn của nguyên giảng viên đại học. |
Thế nhưng vị tiến sĩ thừa nhận, khi trưởng thành, lập gia đình, ông lại sợ Tết vì gánh nặng cơm áo gạo tiền.
“Đồng lương nhân viên eo hẹp mà Tết phải lo đủ các lễ cho bố mẹ, thầy giáo, họ hàng và gia đình nhỏ.
Cách đây 40 năm, Tết của tôi gắn với hai từ cơ hàn. Tôi phải cặm cụi vẽ tranh đến tận đêm giao thừa để kịp giao cho khách, lấy tiền sắm Tết.
Một mình vợ vất vả lo dọn dẹp, bày biện nhà cửa. Trước giao thừa 1 tiếng, tôi mới buông cọ vẽ, ra phố mua cành đào giá rẻ về chưng trong nhà”.
Cũng theo vị tiến sĩ, ông từng gặp tình huống méo mặt vì cảnh túng thiếu.
“Lần đó, tôi chuẩn bị 1 xấp tiền trong túi đi thăm bạn bè. Chẳng ngờ đến chúc Tết, gia đình có đông trẻ con. Tôi không đủ tiền mừng tuổi, đến cháu cuối cùng thì hết tiền. Khi ấy tôi phải thú nhận là đã hết tiền mừng tuổi”, ông Hùng kể.
Thời bao cấp, mọi thứ đều khan hiếm và được phân phối. Trong suy nghĩ của người làm trụ cột gia đình, tiến sĩ Thế Hùng luôn nung nấu ý nghĩ kiếm thêm thu nhập cho vợ con.
“Nhà tôi ở khu phố cổ. Thú vui của tôi là được len lỏi khắp các phố phường, tham khảo thị trường. Một gia đình trên Hàng Mã còn thuê tôi sơn những con sư tử và dán đèn lồng…
Tôi nhận thấy nhiều nhà không có lịch treo tường nên nghĩ ra cách mua bìa cứng quét màu lên, lấy xốp trổ hình thù 12 con giáp, dán vào và gửi bán.
Mỗi tấm lịch tôi giao cho cửa hàng với giá 7 đồng. May mắn sản phẩm bán chạy, được nhiều người đặt hàng. Năm đó, tôi lo được cho vợ con một cái Tết ấm no”, ông Hùng bộc bạch.
Khi nghèo sợ Tết là vậy nhưng kinh tế đủ đầy, ông lại mong Tết đến. “Tôi tìm đến góc quán quen cùng vài người bạn thưở hàn vi, ngắm người lao động nghèo đi sắm Tết, hồi tưởng lại một thời quá vãng.
27, 28 Tết tôi đi chợ hoa, dùng máy ảnh ghi lại những hình ảnh dung dị thường nhật xung quanh. Với tôi Tết bắt đầu từ khi hoa đào khoe sắc trên phố.
Tuy nhiên tôi đánh giá cao sự tiết kiệm, tránh lãng phí trong dịp Tết. Một cành đào nho nhỏ giá 100 nghìn bày lên ban thờ cũng là không khí Tết, không nhất thiết phải cành đào lên đến vài chục triệu.
Tôi quan niệm Tết cần tiết kiệm, chi tiêu hợp lý. Đặc biệt, không sa đà vào cờ bạc, rượu chè, Tết là ngày vui nhưng đừng biến thành ngày sát phạt nhau.
Tết là ngày nghỉ ngơi, thư giãn sau 1 năm vất vả, nâng cao chất lượng sống”, vị Tiến sĩ mỹ học chia sẻ.

Phía sau manh áo mới cha mang về ngày 30 Tết
“Khác với những năm trước, 30 Tết năm đó, bố tôi đưa về cho chúng tôi mỗi người một cái áo, một cái quần. Số quần áo đó còn rất mới nhưng lại rộng thùng thình…”- ông Nguyễn Hùng Vỹ nhớ về kỷ niệm ăn Tết.
" alt=""/>Tết bao cấp: Khoảnh khắc vỡ òa ngày 30 Tết trong gia đình nghèo của vị tiến sĩ
Phù hợp với khả năng tham gia của các hộ nghèo, cận nghèo và mới thoát nghèo, các mô hình giảm nghèo Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2017-2018 đã giúp người nghèo có nguồn lực để phát triển kinh tế.Hợp tác nuôi dê giảm nghèo ở Thái Nguyên
Là địa bàn có thế mạnh về phát triển lâm nghiệp, chăn nuôi gia súc, xã Văn Lăng - Đồng Hỷ được Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên lựa chọn để triển khai mô hình tổ hợp tác chăn nuôi dê cỏ sinh sản bán chăn thả thuộc Dự án “Nhân rộng mô hình giảm nghèo”.
Tham gia mô hình có 44 hộ dân ở 5 bản vùng cao Liên Phương, Vân Khánh, Tân Sơn, Mong và Văn Lăng. Đây đều là hộ nghèo, trong đó chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông.
Được Nhà nước hỗ trợ 3 con dê cái, mỗi hộ dân đối ứng 1 con dê đực giống. Nhờ được tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi dê cỏ sinh sản bán chăn thả, đàn dê được tiêm thuốc thú y, người tham gia tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu, hướng dẫn của cán bộ khuyến nông huyện, xã.
Nhờ tham gia mô hình, dê được ăn uống đầy đủ, khoa học, đàn dê khỏe mạnh, lớn nhanh, sinh sản tốt. Việc nuôi bán chăn thả cũng giúp gia đình kiểm soát được đàn dê, không bị mất dê như trước đây.
 |
|
Theo cán bộ khuyến nông xã Văn Lăng, dự kiến sau 2 - 6 tháng chăn nuôi, từ 3 con dê cái giống của một hộ có thể sinh sản 6 - 8 dê con, sau một năm thì con số sẽ đạt 12 con dê thương phẩm với trọng lượng 30 kg/con. 12 con dê có thể sẽ thu được 54 triệu đồng. Như vậy sau 3 năm, mỗi gia đình có thể thu về 160 triệu đồng/hộ.
Đại diện Chi cục phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên đánh giá, mô hình tổ hợp tác nuôi dê cỏ sinh sản bán chăn thả phù hợp với điều kiện địa lý, khí hậu vùng miền núi Thái Nguyên, chi phí đầu tư chuồng trại, con giống thấp, đầu ra sản phẩm ổn định… Mô hình đã mang lại hiệu quả bước đầu cho người dân và việc nhân rộng mô hình này trong thời gian tới có tính khả thi cao.
Nhân rộng mô hình giảm nghèo hiệu quả
Thái Nguyên là một trong 10 tỉnh được chọn triển khai dự án Nhân rộng mô hình giảm nghèo Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2017-2018. Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, từ đầu năm 2017, cả nước có 506 hộ dân của 10 tỉnh tham gia thực hiện 10 mô hình thí điểm, đây là những hộ nghèo, cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ chính sách… Trong đó, các mô hình được phân bổ theo cơ cấu 3 mô hình cây trồng, 3 mô hình tổ hợp tác cơ giới hóa sử dụng máy và 4 mô hình về chăn nuôi.
Các hộ tham gia được tập huấn kỹ thuật, cung cấp giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi. Nhiều mô hình được đánh giá cao, mang lại hiệu quả cho người dân như mô hình nhân rộng nuôi cá rô phi đơn tính tại Thái Bình, mô hình nhân rộng tổ hợp tác cơ giới hóa sản xuất ngô tại Cao Bằng, mô hình nhân rộng tổ hợp tác nuôi bò sinh sản ở Sóc Trăng, mô hình tổ hợp tác chế biến thủy hải sản tại Quảng Trị…
Các mô hình tham gia đều đã huy động được nguồn vốn đóng góp đối ứng bằng tiền của người dân và địa phương, các địa phương cũng đã liên kết thành công giữa dự án với các tổ chức như tổ hợp tác, hợp tác xã về cung ứng vật tư, kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm giúp bà con yên tâm sản xuất nâng cao giá trị sản phẩm và tăng thu nhập.
 |
|
Từ những thành công của năm 2017, sang năm 2018, Chương trình tiếp tục triển khai 33 mô hình gồm 16 mô hình trồng trọt, 13 mô hình chăn nuôi, 3 mô hình tổ hợp tác cơ giới hóa, sử dụng máy và 1 mô hình nuôi xen canh tôm - lúa.
Trong đó 27 mô hình do Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn ký hợp đồng với các Chi cục Phát triển nông thôn và 6 mô hình do các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện. Hiện nay, các mô hình do Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn ký hợp đồng đã cơ bản hoàn thành trên 85%, một số mô hình hoàn thành trên 90% và đã tiến hành nghiệm thu như mô hình ở Chi cục Phát triển nông thôn các tỉnh Ninh Bình, Bình Phước, Quảng Bình…
Các mô hình đã triển khai được đánh giá phù hợp với quy hoạch sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới ở các địa phương, phù hợp với khả năng tham gia của các hộ nghèo, cận nghèo và mới thoát nghèo.
Được biết năm 2019, Chương trình sẽ tiếp tục triển khai xây dựng và nhân rộng 32 mô hình chuyển đổi cây trồng, vật nuôi tại 30 tỉnh trong cả nước; trong đó, có 3 mô hình gắn với thực hiện Chương trình không còn nạn đói ở Việt Nam. Các đơn vị đề xuất mô hình được yêu cầu phải khảo sát kỹ về địa bàn thực hiện, số hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo, điều kiện đối ứng của các hộ dân… để mang lại hiệu quả cao nhất cho người dân.
T.L - Bích Thủy - Văn Minh
" alt=""/>Nhân rộng nhiều mô hình giúp dân thoát nghèo