Có thể nói, KRACK là lỗi bảo mật không bình thường, rất khó để hacker có thể khai thác, và cũng rất khó để các nhà sản xuất sửa chữa. Và nó đang đẩy khả năng bảo mật của rất nhiều “ông lớn” đến giới hạn của họ.
Dưới đây là những điều bạn cần biết để có thể đảm bảo an toàn cho thiết bị của mình.
Tin tốt: Hacker không dễ khai thác thông tin từ lỗ hổng này.
Đúng vậy, dù KRACK diễn ra trên diện rộng và bất cứ thiết bị kết nối Wi-Fi nào cũng có thể trở thành mục tiêu nhưng nó cũng có những mặt hạn chế trong quá trình hoạt động, và khả năng “dính đòn” cũng không cao như bạn nghĩ. Các hacker sẽ phải trải qua rất nhiều khâu chuẩn bị và cần xác định đối tượng cụ thể mới sử dụng phương thức tấn công này một cách hiệu quả.
Bản chất của KRACK là một lỗ hổng trong hệ thống giao thức kết nối WPA2 giữa điểm phát sóng và thiết bị. Khi hệ thống này bị đánh sập, hacker có thể can thiệp vào kết nối của bạn và từ đó theo dõi những hoạt động không được mã hóa hoặc gián tiếp cài những phần mềm độc hại vào những trang web hợp pháp mà bạn đang sử dụng.
Tuy nhiên, để có thể làm được điều đó, hacker phải ở trong phạm vi phủ sóng của Wi-Fi mà chúng muốn tấn công. Điều này đồng nghĩa với việc khả năng bạn trở thành mục tiêu của chúng là rất thấp. Vì thế, không giống những lỗi máy chủ như Heartbleed hay Shellshock, không thể tiến hành KRACK một cách rộng rãi trên Internet mà chỉ có thể tấn công mỗi lần một mạng mà thôi.
Tóm lại, bạn không cần quá lo lắng về chuyện các hacker có thể đang “hỏi thăm” Wi-Fi của bạn. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn, các tín hiệu Wi-Fi vẫn được mã hóa để bạn có thể cập nhật phần mềm của mình ngay khi có thể.
Tin xấu: Các bản vá lỗi vẫn chưa hoàn chỉnh.
Rất nhiều nhà cung cấp vẫn đang liên tục tung ra những bản vá lỗi đơn lẻ chứ không phải là một bản cập nhật phần mềm hoàn chỉnh. Như đã đề cập ở trên, vụ tấn công này lớn đến nỗi các nhà nghiên cứu cho rằng gần như toàn bộ các thiết bị sử dụng Wi-Fi đều có thể bị ảnh hưởng, không chỉ máy tính, điện thoại mà cả bộ router (bộ điều hướng) hay bất cứ thiết bị nào khác.
Ở thời điểm hiện tại, các thiết bị cần được bảo vệ nhiều nhất chính là những thiết bị mà bạn thường xuyên sử dụng: máy tính và điện thoại. Đây cũng là mục tiêu “béo bở” mà các hacker nhắm đến, vì thế nếu có thể bảo vệ thành công những loại thiết bị này sẽ giúp hạn chế những thiệt hại vô cùng nặng nề.
Nhận thức rõ được điều đó, Microsoft đang triển khai bản vá cho hệ điều hành Windows; trong khi đó, Apple cũng đưa ra thông báo họ đã tìm được cách khắc phục vấn đề này cho các thiết bị iOS, macOS, tvOS và watchOS.
Ngược lại, Android lại tương đối "im hơi lặng tiếng" bởi công nghệ bảo mật của hệ điều hành này chưa bao giờ được đánh giá cao. Mặc dù Google cho biết họ sẽ phát hành bản vá trong thời gian tới nhưng có lẽ ngoài dòng smartphone Pixel ra, các thiết bị khác sẽ còn phải đợi rất lâu nữa mới được hưởng lợi từ điều này.
Cần phải lưu ý rằng, dù router vẫn đứng trước nguy cơ bị tấn công nhưng chỉ cần “vá” được thiết bị của bạn cũng đã đủ để ngăn chặn hành vi của các hacker rồi.
Ngoài máy tính và điện thoại ra, đừng quên kiểm tra những thiết bị hỗ trợ Wi-Fi khác và cập nhật phần mềm cho chúng trong tuần tới. Đừng ngạc nhiên nếu những chiếc TV thông minh, máy in hay những thiết bị Internet of Things khác trở thành đối tượng tấn công của các hacker. Bên cạnh đó, router cũng là một thiết bị cần phải đặc biệt lưu ý dù rất khó để có thể bảo vệ thiết bị này.
So với những lỗ hổng khác thì KRACK tỏ ra khó chịu hơn và khó để “vá” hơn rất nhiều. Mục tiêu của phương thức tấn công này là từng điểm yếu cơ bản nhất trong giao thức WPA2. Điều này khiến đội ngũ bảo mật gặp khó khăn trong việc tạo ra bản vá lỗi đủ khả năng chống lại mọi cuộc tấn công đến từ phía hacker. Nếu tiêu chuẩn mã hõa Wi-Fi không được cải thiện hay nâng cấp trong tương lai, rất có thể chúng ta sẽ còn chứng kiến những phương thức tấn công tương tự như KRACK trong thời gian tới.
Khi các bản vá vẫn chưa thực sự hoàn thiện, cách tốt nhất hiện giờ là tránh những kết nối Wi-Fi công cộng. KRACK sẽ gián tiếp đưa những phần mềm độc hại trong lúc bạn đang truy cập vào những trang web HTTP. Vì thế, càng ít sử dụng Wi-Fi, bạn càng khó trở thành mục tiêu của các hacker sử dụng phương thức tấn công này.
Tất nhiên, đó không phải là cách tối ưu để sử dụng trong thời gian dài nhưng lại là cách tốt nhất để bảo vệ mình ở thời điểm hiện tại.
Theo Tri Thức Trẻ
" alt=""/>Vụ tấn công WiĐáng tiếc, việc sản xuất các hợp chất đặc biệt này rất tốt kém, khiến chi phí điều trị tăng lên đáng kể.
Chẳng hạn, để tạo ra 44 microgram protein interferon beta (nhóm các protein tự nhiên được sản xuất bởi các tế bào của hệ miễn dịch ở hầu hết các động vật nhằm chống lại các tác nhân ngoại lai như virus, vi khuẩn, ký sinh trùng và tế bào ung thư) sẽ tiêu tốn từ 4000 - 7000 USD.
Tuy nhiên, thí nghiệm gần đây của Trung tâm nghiên cứu công nghệ Kansai ở Osaka, Nhật Bản đã phát triển thành công một phương pháp giúp giảm giá thành xuống dưới 40 USD.
Và "vũ khí bí mật" đó chính là loài gà.
Bằng cách tái tổ hợp DNA của gà, nhóm nghiên cứu đã lai tạo thành công giống gà có thể đẻ ra trứng chứa các loại protein quý hiếm, cần thiết cho nghiên cứu và phát triển y tế.
Trong trường hợp này, giống gà của Trung tâm nghiên cứu công nghệ Kansai đã có thể đẻ trứng chưa protein interferon beta, vừa có thể được sử dụng để sản xuất thuốc mà lại vừa có thể gây ra các phản ứng hóa học nhằm mục đích nghiên cứu. Đây quả là là tin vui cho ngành y tế.
Giờ đây, việc lấy protein interferon beta chỉ đơn giản là chăn nuôi gà và lấy trứng, nên chi phí sẽ giảm đi rất nhiều. Tuy đột phá nhưng việc này đang dấy lên nhiều tranh cãi và lo ngại. Không ít ý kiến cho rằng phương pháp này sẽ làm hỏng gen của loài gà, chưa kể tới những nguy cơ đến từ thực phẩm hay sản phẩm y tế của động vật biến đổi gen.
Dù mới chỉ thành công ở quy mô nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, kế hoạch sản xuất protein từ gia cầm vẫn tiếp tục được thực hiện, dự kiến tiến vào thị trường thuốc vào năm tới.
Tuy nhiên, ban đầu nó sẽ chỉ được bán như một hợp chất để nghiên cứu, với giá chỉ bằng 1/2 giá hiện tại trên thị thường. Sẽ mất rất nhiều thời gian để loại protetin từ trứng gà này được sử dụng rộng rãi trong thực tế (chỉ đắt bằng 10% giá hiện tại).
Can thiệp vào di truyền luôn là chủ đề gây tranh cãi nhưng không thể phủ nhận những lợi ích mà nó mang lại cho khoa học và y tế.
Theo SohaNews
" alt=""/>Các nhà khoa học Nhật Bản vừa lai tạo thành công giống gà đẻ ra thuốc chữa bệnh1. Một khởi đầu đầy mạo hiểm
Chuyển thể bởi Ridley Scott từ những trang sách “Do Androids Dream of Electric Sheep?” (Liệu Người Máy Có Mơ Về Cừu Điện?) của tác giả Philip K. Dick, kể câu chuyện về một viên cảnh sát có nhiệm vụ “khai tử” các người máy với hình dạng giống người đến mức khó phân biệt, có thể dễ thấy vì sao Blade Runner kén người xem đến vậy.
Vào thời điểm ra mắt của phim, tầm nhìn của Ridley Scott dường như quá liều lĩnh đối với phần đông khán giả thời đó khi miêu tả một thế giới tương lai giả tưởng cực kỳ chi tiết với phần hình ảnh đầy sự táo bạo. Không những vậy, ở đây còn có một sự mơ hồ nhất định trong việc xây dựng câu chuyện và các nhân vật.
Đây cũng chính là lý do mà phim phải chịu sự can thiệp một cách thô bạo từ phía nhà sản xuất, bị cắt ghép nhiều, thậm chí nhặt nhạnh cả cảnh trong phim The Shining (1980 – Stanley Kubrick) để phục vụ cho một cái kết “có hậu” nhàm chán.
Nhưng chính điều này lại cho Ridley Scott có cơ hội “chuộc” lại lỗi lầm của hãng phim, khi lần đầu tiên đưa khái niệm “Director’s Cut” mà chúng ta vốn đã quá quen thuộc ngày nay vào sử dụng.
Một bản phim gốc chưa qua chỉnh sửa của ông đã được phát hành lại qua đường băng đĩa chính thức, nhưng cũng chưa thực sự thỏa mãn đối với vị đạo diễn khó tính này. Trong suốt 20 năm tiếp theo đó, ông đã liên tục sửa chữa, bổ sung, và phát hành hàng loạt các bản “vá lỗi” khác nhau cho bộ phim này. Đây có lẽ chính là niềm cảm hứng bất tận cho George Lucas và hàng chục lần thay đổi Star Wars cho tới khi không còn nhận ra nổi bản gốc.
2. Đặt nền móng cho dòng phim khoa học viễn tưởng
Vậy Blade Runner “bản chuẩn” có gì mà khiến cộng đồng yêu điện ảnh phải ca ngợi hết lời trong suốt ngần ấy năm như vậy?
Nếu quên đi giọng kể chuyện vô hồn của Harrison Ford trong bản chiếu rạp và những chắp vá ngớ ngẩn của nhà sản xuất, thì phần hình ảnh của phim chính là điều đầu tiên làm nên tên tuổi của Blade Runner.
Bộ phim đã đặt nền móng cho phong cách hình ảnh đặc trưng trong dòng phim khoa học viễn tưởng với bối cảnh tương lai mang nhiều tính “hiện thực”, và có chút gì đó “hoài cổ”. Ridley Scott đã xây dựng nên một thế giới ngập tràn những tòa nhà cao ốc khuất tầm mắt, ánh đèn neon chói chang từ các biển hiệu quảng cáo khổng lồ, nhưng lại được chồng chéo lên những tòa nhà cổ xập xệ trong những khu ổ chuột nhớp nháp nghèo túng, sặc sụa khói bụi của ô nhiễm, và những đường ống lộ thiên chi chít. Thế giới của Blade Runner nghiệt ngã và tối tăm, nhưng cũng hết sức “khả thi” trong thực tế.
Không chỉ đơn giản là tận dụng triệt để sức mạnh của công nghệ kỹ xảo hình ảnh đã từng được những Star Wars hay Alien tiên phong từ trước đó, Blade Runner có tầm cỡ rộng lớn hơn nhiều, khắc họa nên một thế giới “gần gũi” và trần trụi hơn với hiện thực vào thời điểm đó.
Đâu đấy trong những tác phẩm của lớp đạo diễn “hậu thế”, người ta có thể nhìn thấy tinh thần của Blade Runner ẩn hiện như The Matrix (1999), Dark City (1999), The Fifth Element (1997), hay thậm chí là Ghost in the Shell (1995) đến từ Nhật Bản. Những đô thị sầm uất, lớp chen lớp, với những chiếc ô tô bay lượn ngợp trời giống như Back to the Future (1985) hay kể cả là 3 phần prequel của Star Wars cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng mạnh mẽ từ Ridley Scott.
3. Còn nhiều nữa những giá trị nhân bản
Tuy nhiên, giá trị của Blade Runner không chỉ nằm trên một lớp bề mặt hào nhoáng và lạ lẫm, mà còn ở việc tạo điều kiện cho những câu chuyện viễn tưởng có tính hàn lâm và triết học khác có cơ hội được ra đời với tầm cỡ ngang ngửa dạng như Minority Report (2002), Total Recall (1990), hay như Inception (2010) của Christopher Nolan.
Cũng giống như Blade Runner, hầu hết những câu chuyện này đều lấy cốt lõi từ sự “hoang mang” của loài người trước tốc độ phát triển quá chóng mặt của công nghệ tiên tiến. Đó là nỗi sợ hãi về một viễn cảnh tối tăm khi những sai lầm về “con người” sẽ dẫn đến những thảm họa khôn lường từ máy móc.
Đây là tư tưởng vốn đã từng được khai thác từ “buổi bình minh” của dòng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng từ đầu thế kỷ 20, tiêu biểu như tác giả Isaac Asimov với tác phẩm kinh điển I, Robot. Nhưng chỉ đến khi công nghệ thông tin trong thế giới thực đuổi kịp trí tưởng tượng của các nhà làm phim, những tác phẩm kiểu như Blade Runner, hay sau này là Terminator (1984), Matrix (1999), Ex Machina (2014) mới có cơ hội khai thác sâu hơn đề tài này, với những thay đổi nhất định phù hợp với hiện thực phát triển của cuộc sống.
Di sản mà Blade Runner để lại cho lịch sử điện ảnh là hết sức khó đong đếm, và nó sẽ còn tiếp tục len lỏi ngày càng sâu hơn vào những ngóc ngách không tưởng khác của nghệ thuật đại chúng; ngoài điện ảnh như truyện tranh, trò chơi điện tử,...
Ở thời điểm hiện tại, Blade Runner 2049 đang liên tục nhận được những tán dương bất ngờ từ phía các nhà phê bình và nhà báo, khiến cho người ta tiếp tục kỳ vọng vào một sự kế thừa xứng đáng. Nếu như chứng tỏ được giá trị của mình, tầm ảnh hưởng của tượng đài điện ảnh này sẽ còn trải dài tới những tương lai xa hơn thế.
Theo GameK
" alt=""/>Blade Runner đã “nuôi dưỡng” hàng thập kỷ nền điện ảnh Hollywood như thế nào?