Theo khảo sát của Kaspersky, các doanh nghiệp chọn thuê MSSP vì có hiệu quả trong việc cung cấp các giải pháp bảo mật (73,9%), giải quyết tình trạng thiếu nhân viên CNTT hoặc thiếu nhân sự (57,9%), đáp ứng yêu cầu về chuyên môn bảo mật đặc biệt (55,8%).
Theo Research and Markets, các MSSP đều là những doanh nghiệp hàng đầu, có kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn và công nghệ phong phú giúp theo dõi các mối đe dọa bảo mật, cập nhật hệ thống và giảm thiểu các lỗ hổng với chi phí phải chăng.
Họ cung cấp các lớp bảo mật phù hợp, bao gồm bản vá phần mềm, bảo mật DNS, tường lửa, phần mềm chống phần mềm độc hại, chống lừa đảo, trình quản lý thông tin xác thực,… để bảo vệ thông tin bí mật cho khách hàng.
MSSP giám sát tài sản và mạng 24/7 bằng cách sử dụng nhiều công cụ chuyên dụng như AI để xác định các điểm bất thường và tránh sự gián đoạn ngoài ý muốn.
Ông Yeo Siang Tiong, Tổng Giám đốc Kaspersky khu vực ASEAN cho rằng Đông Nam Á vẫn là khu vực có nền kinh tế số phát triển nhanh nhất ở châu Á Thái Bình Dương. Các chính phủ và doanh nghiệp đang đẩy mạnh chuyển đổi số để phù hợp với xu hướng mới. Trong quá trình số hoá, các tổ chức đều chú trọng các giải pháp an ninh mạng và xây dựng nhân tài phù hợp nhằm quản lý hệ thống công nghệ.
Tuy vậy, một nghiên cứu cho thấy châu Á Thái Bình Dương thiếu hụt 2,1 triệu nhân viên an ninh mạng.
Do đó, các giải pháp đang cần thực hiện hiện nay chính là đào tạo đội ngũ nhân viên bảo mật, xây dựng nền tảng từ lớp sinh viên tại các trường đại học. Ngoài ra, thuê ngoài dịch vụ bảo mật cũng góp phần giải quyết thiếu hụt nhân sự trong ngắn hạn lẫn dài hạn.
Theo báo cáo của Vụ Kinh tế số và xã hội số, Bộ TT&TT, trong 17 mục tiêu đến năm 2025 được đề ra tại Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số, tính đến tháng 6, đã có 2 mục tiêu hoàn thành, đạt 11,8%; 15 mục tiêu đang thực hiện, đạt 88,2%, trong đó 2 mục tiêu có khả năng hoàn thành đến 2024, 6 mục tiêu có khả năng hoàn thành đến 2025 và 7 mục tiêu còn thách thức, nguyên nhân chủ yếu là chưa có số liệu thống kê chính thức, cần sự phối hợp của các bộ, ngành, địa phương kịp thời nghiên cứu phương pháp thống kê, đo lường.
Về các nhiệm vụ, Chiến lược quốc gia giao cho các bộ, ngành, địa phương 114 nhiệm vụ đến năm 2025. Đến nay, 20 nhiệm vụ đã hoàn thành, đạt 17,5%; 94 nhiệm vụ chưa hoàn thành, tương ứng 82,5%.
Đáng chú ý, trong khuôn khổ diễn đàn, Vụ trưởng Vụ Kinh tế số và xã hội số Trần Minh Tuấn đã giới thiệu một số kết quả của Báo cáo thường niên kinh tế số Việt Nam 2022. Báo cáo do Ban Kinh tế Trung ương và Bộ TT&TT đồng bảo trợ, với sự tham gia của Vụ Kinh tế tổng hợp, Vụ Công nghiệp của Ban Kinh tế Trung ương; Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông (PTIT), Viện Công nghiệp phần mềm và nội dung số Việt Nam, Vụ Kinh tế số và xã hội số thuộc Bộ TT&TT.
Theo kết quả của nhóm nghiên cứu, ước tính sơ bộ tỷ trọng kinh tế số trên GDP của cả nước năm 2021 là 11,91% và năm 2022 là 14,26%. Trong đó, kinh tế số ICT vẫn là trụ cột với tỷ trọng đóng góp khoảng hơn 9% GDP và tác động lan tỏa của công nghệ số, ICT đóng góp vào các ngành, các lĩnh vực khác là 5% (như vậy tỷ lệ cơ cấu kinh tế số ICT trên kinh tế ngành lĩnh vực đang khoảng 70:30), 70% cho kinh tế số ICT.
“Việt Nam đặt mục tiêu tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành lĩnh vực đạt 10% vào năm 2025 và 20% vào năm 2030, nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế ngành, lĩnh vực phải đạt khoảng 30-40%/ năm và cơ cấu tỷ trọng sẽ là 30% kinh tế số ICT và 70% kinh tế ngành và lĩnh vực”, ông Trần Minh Tuấn thông tin.
Xét ở cấp độ tỉnh, thành phố, nhóm nghiên cứu cũng ước tính được sơ bộ tỷ trọng kinh tế số trên GRDP của 63 địa phương. Trong đó, có 5 địa phương có tỷ trọng trên 20%; 13 địa phương có tỷ trọng từ 10 – 20%; 43 địa phương có tỷ trọng từ 5 – 10%; chỉ 2 địa phương có tỷ trọng dưới 5%.
Thống kê cũng cho thấy, có sự chênh lệch lớn giữa nhóm các tỉnh, thành phố dẫn đầu và nhóm các tỉnh, thành phố ở cuối bảng xếp hạng.
Tỉnh cao nhất là Bắc Ninh, có tỷ trọng kinh tế số trên GRDP đạt 56,83%, trong khi tỷ lệ này của Quảng Ngãi là 4,21%, chênh lệch hơn 13 lần.
Tỷ trọng kinh tế số trên GRDP cao nhất hiện nay thuộc về các tỉnh, thành phố Bắc Ninh, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hải Phòng, Vĩnh Phúc. Đây cũng là nhóm 5 tỉnh dẫn đầu về kinh tế số ICT với thế mạnh từ việc sản xuất thiết bị điện tử, công nghệ lớn. “Cần lưu ý rằng 4/5 tỉnh, thành phố thuộc nhóm này nằm trong nhóm 10 địa phương thu hút dòng vốn FDI nhiều nhất cả nước”, Vụ Kinh tế số và xã hội số nêu.
Đối với sự lan tỏa công nghệ số, ICT trong các ngành, hoạt động kinh tế khác, Báo cáo thường niên kinh tế số Việt Nam 2022 cho thấy, 5 tỉnh, thành phố dẫn đầu về mức độ lan tỏa ICT là Đà Nẵng, TP.HCM, Lạng Sơn, Phú Thọ, Thừa Thiên Huế; còn 5 địa phương ghi nhận mức độ lan tỏa ICT thấp nhất gồm có Bạc Liêu, Quảng Ngãi, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bình Thuận.
Mức độ ứng dụng công nghệ số tăng trưởng mạnh nhất thuộc về nhóm các lĩnh vực dịch vụ, bao gồm: Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ (khoảng 19%); y tế và hoạt động trợ giúp xã hội (16%); hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng, đảm bảo xã hội bắt buộc (14%); GD&ĐT (13)... Nhóm các ngành, lĩnh vực có mức độ lan tỏa ICT thấp nhất là khai khoáng; xây dựng; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải...
Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc các địa phương gặp phải trong hơn 1 năm triển khai Chiến lược quốc gia, Vụ Kinh tế số và xã hội số cho biết: Bộ TT&TT đã phát triển một công cụ hỗ trợ công tác tổng hợp, giám sát tình hình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế số, kết nối tới các tỉnh, thành phố, tới mạng lưới chuyên gia tư vấn kinh tế số. Dự kiến, vào tháng 11/2023 Bộ TT&TT sẽ cung cấp công cụ này cho các địa phương.
Bên cạnh đó, để tận dụng nguồn lực nhằm mang lại kết quả lớn nhất về kinh tế số, Bộ TT&TT xác định 5 lĩnh vực chính cần tập trung thúc đẩy là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành dệt may; ngành logistics, ngành nông nghiệp và ngành du lịch.
Tám công ty bao gồm Naura, iCommsemi, Shanghai New Vision Microelectronics, Nanjing Aviacomm Semiconductor, Emotibot, Tongfang, Chengdu Analog Circuit Technology và Hestia Power.
Naura, công ty sản xuất các công cụ khắc, lắng đọng và làm sạch, cũng như các thiết bị sản xuất chip khác, bị cáo buộc đã “săn trộm” nhân tài bán dẫn.
Công ty có trụ sở tại Bắc Kinh với khách hàng là những tên tuổi sản xuất chip lớn nhất đại lục như SMIC, Yangtze Memory Technologies Corporation và Hua Hong Semiconductor Group.
Trong nhóm công ty bị nêu tên, iCommsemi và New Vision Microelectronics chuyên về thiết kế chip. Emotibot phát triển các nền tảng trí tuệ nhân tạo tự động dựa trên các công nghệ như xử lý ngôn ngữ tự nhiên và học sâu.
Cơ quan điều tra cho biết, Hestia Power - công ty chuyên phát triển vật liệu chip trụ sở Thượng Hải, đã nhận được tiền tài trợ từ “Big Fund” - quỹ đầu tư nhà nước của Trung Quốc thành lập nhằm hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp bán dẫn nội địa.
Tongfang niêm yết tại Thượng Hải, trước đây được gọi là Tsinghua Tongfang, được thành lập bởi Đại học Thanh Hoa vào năm 1997.
Hiện tại, công ty này do Tổng công ty hạt nhân quốc gia Trung Quốc sở hữu, nhà nước kiểm soát và hoạt động trong nhiều lĩnh vực, bao gồm các ngành công nghiệp điện tử tiêu dùng, năng lượng và môi trường.
Tongfang bị cáo buộc lôi kéo gần 100 nhân viên nghiên cứu và phát triển thông qua một công ty trung gian.
Bắc Kinh đã tăng gấp đôi nỗ lực tự chủ trong ngành công nghiệp chip, khi Washington thắt chặt kiểm soát xuất khẩu để hạn chế các lô hàng công nghệ bán dẫn tiên tiến xuất hiện tại đại lục.
Tháng trước, chính quyền thành phố Bắc Kinh đã ra mắt một quỹ đầu tư bán dẫn với số vốn đăng ký là 8,5 tỷ NDT (1,2 tỷ USD), theo cơ sở dữ liệu doanh nghiệp Trung Quốc Qichacha.
Sự kiện này diễn ra 3 tháng sau khi Trung Quốc thành lập quỹ đầu tư chip lớn nhất từ trước đến nay (đã bước sang giai đoạn ba), với số vốn đăng ký là 344 tỷ NDT.
(Theo SCMP)