Tuy nhiên với điều kiện thí sinh đủ điểm trúng tuyển, lựa chọn và có đơn đề nghị gửi Bộ GD-ĐT và gửi trường xin được xét tuyển.Vừa qua, thí sinh Nguyễn Minh Quân (huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai) khá bất bình khi Trường ĐH Đồng Nai đã nâng điểm chuẩn trúng tuyển năm 2019 lên mức “không tưởng” khi có những ngành sư phạm điểm chuẩn rất cao nhưng không có thí sinh nào trúng tuyển. Phía nhà trường cũng thừa nhận do số thí sinh trúng tuyển quá ít nên nâng điểm chuẩn lên cao để đánh trượt thí sinh.
Trao đổi về điều này, bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD-ĐT) cho hay:
“Thực tế thì tất cả các trường đều mong muốn tuyển sinh được hết chỉ tiêu. Nhưng một số trường, trong điều kiện quá ít thí sinh trúng tuyển, không đủ số lượng để mở lớp và duy trì lớp học nên đã nâng điểm trúng tuyển lên cao để thí sinh được chuyển sang xét tuyển ở nguyện vọng tiếp theo hoặc tham gia xét tuyển đợt sau. Chúng tôi hiểu được có nhiều lý do dẫn đến cách lựa chọn của trường, chủ yếu là các trường phải cân đối từ nguồn học phí; tính toán đến hiệu quả của hoạt động đào tạo… Song, cách giải quyết trên vẫn chủ yếu xuất phát từ góc độ của cơ sở đào tạo”.
 |
Ảnh minh họa: Thanh Hùng. |
Tuy nhiên, theo bà Phụng, ở góc độ đảm bảo quyền của người học, do cách thức đó của các trường dẫn đến thí sinh có thể không trúng tuyển đợt 1 hoặc không trúng tuyển vào nguyện vọng mà các em ưu tiên chưa được tính đến một cách đầy đủ.
“Mặc dù trong điều kiện các trường tự chủ tuyển sinh và thí sinh tự do đăng ký xét tuyển, không giới hạn nguyện vọng thì cách làm của trường không vi phạm quy định cụ thể nào của quy chế tuyển sinh nhưng nên tính đến nguyện vọng của thí sinh, nhất là khi các em đã lựa chọn trường mình để đăng ký xét tuyển.
Có những cách tốt hơn như chúng tôi đã từng khuyến nghị, hướng dẫn các trường trong thời gian qua: Sau khi có thông tin về đăng ký xét tuyển ban đầu, nếu trường thấy có khả năng không đủ điều kiện mở lớp thì cần thông tin đầy đủ cho các em trước hoặc trong thời gian thay đổi nguyện vọng hoặc báo cáo Bộ GD-ĐT đề xuất và hỗ trợ cách giải quyết hoặc thông qua bộ phận quản lý cơ sở dữ liệu để trao đổi thông tin với các thí sinh về khả năng, điều kiện của trường và các phương án mà thí sinh có thể lựa chọn… nhưng rất tiếc là một số trường đã không thực hiện”, bà Phụng thông tin.
Vì vậy, Bộ GD-ĐT đã định hướng cho các trường minh bạch thông tin cho thí sinh lựa chọn, khi phát sinh những tình huống không mong muốn thì cần thông qua bộ phận quản lý cơ sở dữ liệu để trao đổi với thí sinh, thống nhất cách lựa chọn mà cả hai bên đều có thể chấp nhận.
Đối với các thí sinh, Bộ có thể hỗ trợ, tạo điều kiện cho thí sinh đến những trường đang đào tạo ngành đăng ký học mà các em đủ điểm trúng tuyển, nếu lựa chọn và có đơn đề nghị gửi Bộ và gửi trường xin được xét tuyển...
“Năm 2018, Trường ĐH Hồng Đức có 1 ngành chỉ có 1 thí sinh trúng tuyển. Trường đã thông tin kịp thời cho thí sinh và thí sinh đã đề xuất đổi sang học ngành khác. Vì vậy, việc nâng điểm cao của Trường ĐH Hồng Đức ở ngành mà thí sinh đăng ký xét tuyển ban đầu chỉ là giải pháp kỹ thuật trong tương tác với hệ thống xét tuyển, không ảnh hưởng đến quyền lợi của thí sinh”, bà Phụng nói.
Thực tế, hiện tượng trường đại học đưa ra điểm cao đánh trượt thí sinh trúng tuyển nhằm bảo vệ "quyền lợi" của mình không phải chỉ năm nay mà các năm trước đã xuất hiện.
Nói về biện pháp để khắc phục tình trạng này, bà Phụng cho hay: “Trong toàn hệ thống, các trường gặp khó khăn trong tuyển sinh như Trường ĐH Đồng Nai, Trường ĐH Hùng Vương TP HCM không nhiều. Bên cạnh một số tác động như buộc các trường phải nâng cao chất lượng để thu hút thí sinh, buộc phải đánh giá nhu cầu của thị trường khi mở ngành; buộc phải khảo sát nhu cầu của thị trường và chuẩn bị các điều kiện cần thiết khi những ngành cũ giảm đi, ngành mới phát sinh… thì cũng cần tính đến các giải pháp hợp lý để đảm bảo quyền của thí sinh và quyền tự chủ của các trường. Bộ GD-ĐT có trách nhiệm tạo ra cơ chế đề các trường và thí sinh thực hiện.
Có những giải pháp đã và đang được thực hiện như công khai minh bạch thông tin về điều kiện đảm bảo chất lượng của trường, về tình hình tuyển sinh và đào tạo những năm trước để người học lựa chọn. Cùng đó quy định chế tài nếu vi phạm đối tượng, điều kiện, chỉ tiêu tuyển sinh thì bị xử lý và không được tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh trong thời hạn 5 năm; nếu 5 năm không tuyển sinh thì bị đóng ngành; trao quyền tự chủ cho trường để trường phải tính toán đến nguồn lực đảm bảo hoạt động của nhà trường khi không có sinh viên theo học…”.
Bên cạnh việc hàng năm tổng kết công tác tuyển sinh, hoàn thiện chính sách và các điều kiện hỗ trợ kỹ thuật để tổ chức tuyển sinh tốt hơn, bà Phụng cho hay, Bộ GD-ĐT đang đặt hàng các nhà nghiên cứu của Chương trình KHGD quốc gia với đề tài Nghiên cứu đề xuất phương án đánh giá xét công nhận tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới để nghiên cứu, đề xuất thêm giải pháp đánh giá thực trạng, khắc phục bất cập phát sinh, làm cơ sở cho việc đổi mới công tác tuyển sinh trong thời gian tới.
Thanh Hùng

Thí sinh trên 22 điểm vẫn bị đánh trượt đại học vì trường cố tình nâng điểm chuẩn
- Thi được 22,3 điểm, em Nguyễn Minh Quân (huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai) khá bất bình khi Trường ĐH Đồng Nai đã nâng điểm chuẩn lên mức “không tưởng” nhằm đánh trượt thí sinh.
" alt=""/>Nâng điểm chuẩn đánh trượt thí sinh: 'Rất tiếc một số trường không thực hiện khuyến nghị của Bộ'
Cùng với hai tiền bối là Socrates và Plato, nhà triết học Aristotle là một trong ba trụ cột của văn minh Hy Lạp cổ đại, là những người đặt nền móng cho triết học phương Tây.Aristotle sinh vào khoảng năm 384 TCN ở Stagira, Hy Lạp. Năm 17 tuổi, ông theo học ở Học viện của Plato. Năm 338 TCN, ông bắt đầu dạy học cho Alexander Đại đế. Năm 335 TCN, Aristotle thành lập trường của riêng mình, Lyceum, ở Athens, nơi ông đã dành phần lớn thời gian còn lại của cuộc đời để học tập, giảng dạy và viết.
Aristotle qua đời năm 322 TCN sau khi rời Athens và chạy trốn đến Chalcis.
Cuộc đời
Stagira – nơi Aristotle sinh ra - là một thị trấn nhỏ nằm ở bờ biển phía bắc của Hy Lạp. Cha ông, Nicomachus, là bác sĩ riêng của nhà vua Macedonia – Amyntas II. Mặc dù cha ông qua đời khi ông còn nhỏ, nhưng Aristotle vẫn rất gắn bó và chịu ảnh hưởng bởi vương quốc Macedonia suốt phần đời còn lại của mình. Ít có thông tin nói về mẹ ông – bà Phaestis – người cũng được cho là cũng qua đời khi Aristotle còn nhỏ.
Sau khi cha qua đời, Proxenus tới từ thành Atarneus kết hôn với chị gái ông, và trở thành người giám hộ cho tới khi ông trưởng thành.
Năm 17 tuổi, Proxenus gửi Aristotle tới Athens để theo đuổi sự nghiệp học hành.
Vào thời điểm đó, Athens được coi là trung tâm học thuật của vũ trụ. Ở Athens, Aristotle vào học Học viện của Plato – cơ sở học thuật hàng đầu của Hy Lạp, và trở thành một học trò ưu tú của Plato.
Aristotle gắn bó với Plato và ngôi trường suốt 2 thập kỷ. Plato qua đời vào năm 347 TCN. Vì bất đồng với một số lý luận triết học của thầy nên Aristotle không phải là người kế thừa ngôi trường này như nhiều người dự đoán.
Sau khi Plato qua đời, bạn Aristotle là nhà vua Atarneus đã mời ông tới cung điện.
Trong chuyến thăm 3 ngày ở Mysia, Aristotle đã gặp gỡ và cưới người vợ đầu là Pythias – cháu gái của Hermias. Họ có với nhau một người con gái, được đặt theo tên mẹ là Pythias.
Giảng dạy
Năm 338 TCN, Aristotle tới Macedonia để bắt đầu dạy cho con trai của Vua Phillip II lúc đó 13 tuổi và sau này trở thành Alexander Đại Đế. Cả vua Phillip và Alexander đều rất tôn trọng Aristotle và luôn đảm bảo rằng cung điện Macedonia đền đáp một cách hào phóng cho công việc của ông.
Năm 335 TCN, sau khi Alexander kế vị cha mình và chinh phục thành Athens, Aristotle trở về thành phố. Ở Athens, ngôi trường của Plato - lúc này đang được điều hành bởi Xenocrates – vẫn có những ảnh hưởng đối với tư tưởng của Hy Lạp. Với sự cho phép của Alexander, Aristotle bắt đầu thành lập ngôi trường của riêng mình ở Athens, có tên là Lyceum. Ông dành hầu hết phần còn lại cuộc đời mình cho công việc giảng dạy, nghiên cứu và viết cho tới khi học trò của ông – Alexander Đại Đế qua đời.
Aristotle nổi tiếng với thói quen đi dạo quanh sân trường trong khi dạy học, vì thế các học trò buộc phải đi theo ông.
Họ còn được gọi với cái tên là “Peripatetics”, có nghĩa là “những người đi rong”.
Các môn đệ của Lyceum nghiên cứu các lĩnh vực từ khoa học tới toán, triết học, chính trị, gần như tất cả mọi thứ. Nghệ thuật cũng là mối quan tâm của họ. Họ viết ra những phát hiện của mình trên các bản thảo. Bằng cách đó, họ đã xây dựng được một bộ sưu tập khổng lồ các tài liệu của trường – vốn được coi là một trong những thư viện lớn đầu tiên của thế giới.
Cùng năm Aristotle thành lập trường Lyceum, vợ ông qua đời.
Không lâu sau, ông có một cuộc tình lãng mạn với một phụ nữ tên là Herpyllis.
Theo một số sử gia, Herpyllis có thể là nô lệ của Aristotle, được cung điện Macedonia ban cho ông.
Họ cho rằng, cuối cùng ông cũng trả tự do và cưới bà. Bà là người đã sinh cho ông những đứa con, trong đó có một người con trai tên là Nicomachus – đươc đặt theo tên của cha ông. Người ta cho rằng Aristotle đã đặt tên tác phẩm triết học nổi tiếng của ông Nicomachean Ethics theo tên người con trai này.
Khi Alexander Đại Đế qua đời vào năm 323 TCN, chính quyền ủng hộ Macedonia bị lật đổ, và theo quan điểm chống Macedonia, Aristotle bị buộc tội bất kính vì quan hệ của ông với người học trò cũ và cung điện Macedonia. Để tránh bị hành quyết, ông đã rời Athens và chạy trốn tới Chalcis – nơi ông qua đời một năm sau đó.
Khoa học
Mặc dù Aristotle không phải là một nhà khoa học theo định nghĩa của ngày nay, nhưng khoa học là một trong số những lĩnh vực mà ông nghiên cứu trong thời gian dài ở Lyceum. Aristotle tin rằng kiến thức có thể đạt được thông qua việc tương tác với các vật thể vật chất.
Aristotle cũng nghiên cứu về sinh học, trong đó ông cố gắng phân loại các loài động vật thành các chi dựa trên những đặc tính tương đồng của chúng, mặc dù sự phân loại của ông có một số sai sót.
Ông cũng phân loại động vật thành các loài dựa trên điểm khác biệt là những động vật có máu đỏ và những loài còn lại. Những động vật có máu đỏ chủ yếu là động vật có xương sống, còn các loài không có máu đỏ là những loài động vật thân mềm. Mặc dù giả thuyết của ông chỉ có độ chính xác tương đối, song sự phân loại của Aristotle được coi là hệ thống chuẩn trong hàng trăm năm.
Sinh học biển cũng là một lĩnh vực hấp dẫn Aristotle. Qua giải phẫu, ông đã nghiên cứu kỹ lưỡng các sinh vật biển.
Khác với phân loại sinh học, những quan sát của ông về sinh vật biển, được thể hiện trong những cuốn sách của ông, thì chính xác hơn nhiều.
Trong tác phẩm Meteorology, Aristotle cũng đắm mình trong các ngành khoa học trái đất. Ông không chỉ nghiên cứu về thời tiết. Trong Meteorology, Aristotle xác định chu kỳ nước và thảo luận về các chủ đề từ thảm họa thiên nhiên cho tới các hiện tượng chiêm tinh. Mặc dù nhiều quan điểm của ông về Trái đất vẫn còn gây tranh cãi vào thời điểm đó, song chúng lại được chấp nhận và phổ biến vào cuối thời Trung Cổ.
Triết học
Một trong những trọng tâm chính của triết học Aristotle là khái niệm về logic mang tính hệ thống.
Mục tiêu của Aristotle là đưa ra một quá trình lý luận toàn cầu cho phép con người học được mọi điều về thực tế. Qúa trình ban đầu bao gồm việc mô tả các vật thể dựa trên đặc tính, trạng thái và hành động của chúng. Trong các luận thuyết triết học của mình, ông cũng thảo luận về việc con người có thể có được các thông tin về vật thể thông qua việc loại trừ và suy luận. Với Aristotle, loại trừ là một lý luận hợp lý. Thuyết loại trừ của ông là nền tảng của thứ mà các nhà triết học ngày nay gọi là phép tam đoạn luận.
Các tác phẩm chính
Aristotle viết khoảng 200 tác phẩm, hầu hết dưới dạng ghi chú và bản thảo viết tay.
Chúng bao gồm các đoạn đối thoại, các tài liệu qua quan sát khoa học và các tác phẩm có tính hệ thống.
Học trò của ông, Theophrastus đã trông nom những tác phẩm này, sau đó chuyển chúng cho học trò Neleus – người đã cất giữ chúng trong một hầm mộ để tránh ẩm ướt cho tới khi được đưa tới Rome và được các học giả ở đó sử dụng. Trong số khoảng 200 tác phẩm của Aristotle, chỉ có 31 tác phẩm vẫn còn đang được lưu giữ. Hầu hết được viết trong thời gian Aristotle ở Lyceum.
Các tác phẩm chính của Aristotle về logic gồm có:Categories, On Interpretation, Prior Analytics và Posterior Analytics.Trong đó, ông có thảo luận về hệ thống lý luận và hệ thống phát triển các lập luận âm thanh của mình.
Aristotle cũng sáng tác một số tác phẩm nghệ thuật, trong đó có “Rhetoric”, và tác phẩm khoa học như “On the Heavens”,sau đó là “On the Soul”, trong đó ông chuyển từ thảo luận về thiên văn học sang nghiên cứu tâm lý con người. Các tác phẩm của ông về cách con người nhận thức thế giới tiếp tục là nền tảng cho nhiều nguyên lý của tâm lý học hiện đại.
Cái chết và di sản
Năm 322 TCN – chỉ một năm sau khi ông chạy trốn tới Chalcis, Aristotle mắc bệnh về tiêu hóa, sau đó qua đời.
Thế kỷ sau đó, các tác phẩm của ông không còn được sử dụng, nhưng lại được hồi sinh vào thế kỷ thứ nhất.
Theo thời gian, chúng trở thành nền tảng của triết học trong hơn 7 thế kỷ. Chỉ nói riêng về những ảnh hưởng tới triết học, các tác phẩm của Aristotle đã ảnh hưởng tới các tư tưởng từ thời kỳ cuối cổ đại tới thời kỳ Phục Hưng.
Ảnh hưởng của Aristotle tới tư tưởng phương Tây trong ngành khoa học xã hội nhân văn phần lớn được coi là không có người thứ hai, ngoại trừ sự đóng góp trước đó của thầy ông là Plato, và thầy của Plato là Socrates. Việc diễn giải và tranh luận về những tác phẩm triết học của Aristotle đến nay vẫn còn tiếp tục.
Nguyễn Thảo(dịch)

Cuộc đời và cái chết của triết gia "khôn ngoan nhất" thành Athens
Socrates (470-399 TCN) là một triết gia thời Hy Lạp cổ đại và là người khởi nguồn chính cho tư tưởng phương Tây. Thông tin về cuộc đời ông ít được biết đến ngoài những ghi chép của chính những học trò, trong đó có triết gia vĩ đại Plato.
" alt=""/>Aristotle