Do người bệnh có thai trong quá trình đang học và chưa cưới nên tâm lý khá căng thẳng. Tuy nhiên theo gia đình chia sẻ, quá trình mang thai và sinh đẻ của nữ sinh viên không có gì bất thường. Khi con gái chào đời, ngoài chồng, chị cũng nhận được sự hỗ trợ, chăm sóc từ mẹ đẻ.
Chồng bệnh nhân là người ít thể hiện sự quan tâm, chia sẻ với vợ. Dù vậy, kinh tế gia đình họ tạm ổn và vẫn được sự hỗ trợ của bố mẹ hai bên.
Sau khi sinh con được 13 ngày, chị T. có biểu hiện khó ngủ, chỉ 3-4h mỗi đêm. Chị luôn cảm giác mệt mỏi, thiếu năng lượng, ít nói chuyện với mọi người hơn trước. Người bệnh hay ngồi một mình, vẻ mặt buồn rầu và thường xuyên khóc lóc.
Đồng thời, người phụ nữ này cũng ăn uống kém ngon miệng, hay suy nghĩ tiêu cực, bi quan. Chị cũng không để tâm tới việc chăm sóc con, không thể hiện tình cảm với con, cảm giác khó chịu khi nghe tiếng con khóc.
Cuối cùng, một ngày, gia đình phát hiện chị dùng dao rạch bụng để tự sát. Người nhà hoảng hốt đưa chị vào Bệnh viện Cu Ba Quảng Bình cấp cứu. Sau đó, người mẹ trẻ được chuyển tới khoa tâm thần để tiếp tục điều trị.
Điều trị nội trú 20 ngày, triệu chứng bệnh của chị T. thuyên giảm. Người phụ nữ này nói chuyện với mẹ và người thân nhiều hợn, bớt buồn chán. Sau đó, chị được xuất viện về nhà và uống thuốc theo đơn. Nhưng khi về nhà, chị T. xuất hiện các hành vi như la hét, cáu gắt với mọi người, chống đối không chịu uống thuốc và được người nhà đưa tới khám và điều trị tại Viện sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai. Bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn hành vi và tâm thần nặng, trong đó yếu tố trầm cảm sau sinh chiếm ưu thế.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn, Viện trưởng Viện Sức khỏe tâm thần, trong năm 2021, Viện tiếp nhận khoảng 27 sản phụ có biểu hiện bị rối loạn tâm thần sau sinh trong đó có nhiều ca có ý tưởng tự sát.
"Đây là những trường hợp nặng nề được gia đình đưa tới viện. Tuy nhiên, còn rất nhiều trường hợp sản phụ có biểu hiện nhẹ hoặc không chia sẻ, cố tình giấu bệnh dẫn tới tình trạng nặng nề hơn. Hoặc có trường hợp biểu hiện bằng triệu chứng khác như mệt mỏi, mất ngủ, tức ngực, không đến viện mà đi khám chuyên khoa về thần kinh, tim mạch nên không tìm ra được căn nguyên để điều trị", BS Tuấn cho hay.
Theo TS Vũ Thy Cầm, Trưởng phòng Tâm lý lâm sàng (Viện Sức khỏe Tâm thần), thời kỳ sinh đẻ người phụ nữ có nhiều thay đổi về giải phẫu, sinh lí, tâm lí, xã hội.
Trầm cảm sau sinh khởi phát trong vòng 4 tuần đầu sau sinh. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cũng như các chuyên gia sức khỏe cho rằng, trầm cảm sau sinh có thể khởi phát ở bất kỳ thời điểm nào trong vòng 1 năm đầu sau sinh.
Các bác sĩ thông tin thêm, trầm cảm là rối loạn cảm xúc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ, ở các nền văn hóa khác nhau, không phân biệt tầng lớp kinh tế, xã hội và trình độ học vấn hay chủng tộc.
Tại Châu Âu, tỷ lệ trầm cảm sau sinh là 8,6%. Nữ giới có tỷ lệ trầm cảm cao hơn nam giới, tỷ lệ này lần lượt là 10,05% và 6,6%. Châu Á có tỷ lệ trầm cảm sau sinh dao động từ 3,5% - 63,3%. Ở Việt Nam, các nghiên cứu tại một số bệnh viện phụ sản, cho thấy tỷ lệ trầm cảm sau sinh từ 11,6% - 33%. Ước tính gần 50% phụ nữ bị trầm cảm sau sinh không được chẩn đoán bởi chuyên gia y tế. 80% phụ nữ bị trầm cảm sau sinh sẽ hồi phục hoàn toàn.
Theo các chuyên gia, trầm cảm sau sinh có thể gây những tác động xấu đến sức khỏe của bà mẹ và trẻ em, cũng như mối quan hệ của họ với các thành viên trong gia đình. Trẻ sơ sinh có mẹ bị trầm cảm tăng trưởng kém hơn trẻ sơ sinh có mẹ không bị trầm cảm.
TS.BS Vũ Thy Cầm cho biết thêm, biểu hiện trầm cảm sau sinh ở nhiều mức độ khác nhau, thường có các triệu chứng như bồn chồn, lo lắng, mất ngủ, lo âu, nghĩ bản thân và đứa bé là gánh nặng, có ý định tự sát một mình hoặc sát hại con….
Do vậy, để đề phòng trầm cảm sau sinh thì sự quan tâm, động viên của người thân, trực tiếp là người chồng rất quan trọng. Ngoài ra, khi phát hiện ra những triệu chứng như trên nên đưa bà mẹ đi khám để được điều trị kịp thời, tránh để lại hậu quả đáng tiếc.
Với trọng tâm chuyển đổi IPv6 cho cộng đồng, trong hơn 10 năm qua, kế hoạch hành động quốc gia về IPv6 đã đạt được những kết quả ấn tượng.
Tính đến hết năm 2020, Việt Nam đã có 34 triệu người dùng IPv6 với tỷ lệ sử dụng IPv6 trên Internet Việt Nam đạt 46%, gấp tới 1,7 lần trung bình toàn cầu. Việt Nam đứng thứ 2 khu vực ASEAN, thứ 4 Châu Á và thứ 10 toàn cầu, khẳng định vị thế trong khu vực và quốc tế. Mạng lưới, dịch vụ IPv6 của doanh nghiệp hoạt động tốt với 11 triệu thuê bao FTTH và hơn 34 triệu thuê bao di động IPv6.
Với khối CQNN, hiện đã có 33 địa phương và 4 bộ, ngành ban hành kế hoạch chuyển đổi IPv6; 13 Cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, địa phương hoạt động tốt với IPv6; 20 địa phương và 11 bộ, ngành đã đăng ký sử dụng địa chỉ IP độc lập (IPv4, IPv6), sẵn sàng tài nguyên số phục vụ quy hoạch, hiện đại hóa mạng lưới, dịch vụ, phát triển hạ tầng số.
23 tập thể và 59 cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về IPv6 được trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ TT&TT. |
Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng nhận định, hành trình chuyển đổi Internet Việt Nam sang thế hệ mới hoạt động với địa chỉ IPv6 đã được bắt đầu từ những quyết định mạnh dạn, đúng đắn, kiên trì và hiệu quả; thể hiện rõ nhất bằng việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về IPv6 – đóng vai trò kim chỉ nam xuyên suốt một thập kỷ vừa qua.
Theo Thứ trưởng, kết quả triển khai IPv6 những năm qua là niềm tự hào của Việt Nam. “Nếu nói về các bảng xếp hạng thế giới, rất ít có những xếp hạng mà Việt Nam lọt vào Top 10 quốc gia làm tốt nhất. Chúng ta đã làm được điều này với việc thúc đẩy chuyển đổi sang IPv6”, Thứ trưởng nói.
100% cơ quan nhà nước chuyển đổi sang IPv6 vào năm 2025
Để định hướng, thúc đẩy, hỗ trợ khối cơ quan nhà nước chuyển đổi IPv6 thành công, ngày 14/1/2021, Bộ trưởng Bộ TT&TT đã ký Quyết định 38 phê duyệt Chương trình “IPv6 For Gov” giai đoạn 2021-2025.
Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng và các đại biểu thực hiện nghi thức khai trương Chương trình "IPv6 For Gov" giai đoạn 2021 - 2025. |
Theo ông Nguyễn Hồng Thắng, Giám đốc Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), cơ quan được giao chủ trì triển khai Chương trình, trong 5 năm tới, Bộ TT&TT xác định thúc đẩy hỗ trợ chuyển đổi IPv6 Việt Nam sẽ tập trung vào khối CQNN.
Bộ TT&TT sẽ tiên phong và đồng hành cùng các bộ, ngành, địa phương trong quá trình chuyển đổi IPv6 cho mạng lưới, dịch vụ của CQNN; xúc tiến, hỗ trợ và đảm bảo cho việc thực hiện thành công toàn bộ quá trình chuyển đổi IPv6 cho mạng lưới, dịch vụ của CQNN.
Các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể của Chương trình “IPv6 For Gov” trong 5 năm có thể khái quát theo hai giai đoạn lớn gồm: giai đoạn 2021 – 2022 với mục tiêu 50% bộ, ngành, địa phương ban hành Kế hoạch chuyển đổi IPv6 và chuyển đổi Cổng thông tin điện tử, Cổng dịch vụ công hoạt động tốt với IPv6; giai đoạn 2023 - 2025 với mục tiêu 100% mạng lưới, dịch vụ của CQNN chuyển đổi sang IPv6 và sẵn sàng hoạt động thuần IPv6.
Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh, thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của Bộ trưởng về chuyển đổi số: “Việt Nam đi cùng nhịp với các nước trên thế giới trong ứng dụng công nghệ”, chúng ta đặt mục tiêu đi cùng nhịp với Mỹ, Trung Quốc và những nước tiên phong khác trong triển khai IPv6.
Khẳng định Bộ TT&TT sẽ đồng hành cùng các bộ, ngành, địa phương trong quá trình chuyển đổi IPv6, Thứ trưởng đề nghị các bộ, ngành, Sở TT&TT và các đơn vị chuyên trách về CNTT làm tốt vai trò hạt nhân, đơn vị tham mưu xây dựng, triển khai thành công kế hoạch chuyển đổi IPv6 của các bộ, ngành, địa phương; chủ động triển khai và đáp ứng tốt các mục tiêu, chỉ tiêu, tiêu chí của Chương trình.
Bộ TT&TT sẽ hoàn tất việc chuyển đổi IPv6 cho mạng lưới, dịch vụ của Bộ trước để làm hình mẫu tham khảo. Các CQNN thực hiện nhanh hơn quá trình xây dựng kế hoạch chuyển đổi IPv6 và chuyển đổi IPv6 cho Cổng thông tin điện tử, Cổng dịch vụ công. Phấn đấu ngay trong năm 2021, 100% bộ, ngành, địa phương ban hành kế hoạch chuyển đổi IPv6 và chuyển đổi IPv6 thành công cho Cổng thông tin điện tử.
Các doanh nghiệp viễn thông, Internet, doanh nghiệp CNTT cần chủ động tư vấn, cung ứng dịch vụ có hỗ trợ tính năng IPv6 cho các CQNN; chủ động rà soát, đầu tư nâng cấp hạ tầng, dịch vụ, phần cứng, phần mềm hỗ trợ IPv6 và phát triển các nền tảng hỗ trợ IPv6 như nền tảng của kinh tế số, định danh số, thanh toán điện tử… tiếp tục tham gia tiến trình chuyển đổi toàn bộ mạng Internet Việt Nam sang ứng dụng IPv6, hướng tới chỉ tiêu 100% người sử dụng truy cập Internet qua IPv6.
Các doanh nghiệp viễn thông, Internet đẩy nhanh cung cấp dịch vụ IPv6 tới người dùng trên diện rộng; hướng tới mục tiêu 100% người sử dụng IPv6 vào năm 2023. Các doanh nghiệp nội dung, các trung tâm dữ liệu, nền tảng điện toán đám mây lớn chuyển đổi cung cấp dịch vụ IPv6 mặc định ngay trong quý I/2021. Trạm trung chuyển lưu lượng quốc gia VNIX là nơi lý tưởng để kết nối, trao đổi lưu lượng Internet, IPv6.
Trung tâm VNNIC và các đơn vị thuộc Bộ TT&TT thực hiện tốt vai trò chủ trì, điều phối, tư vấn, hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương trong chuyển đổi IPv6; chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông, ICT chuyển đổi IPv6 đồng bộ; tham mưu cho Bộ TT&TT các chính sách, kế hoạch và có biện pháp thúc đẩy cụ thể.
Là cơ quan thường trực, VNNIC cũng cần thực hiện tốt hơn vai trò trung tâm tổng hợp, theo dõi, giám sát thông tin để tương trợ hỗ trợ các đơn vị bám sát và hoàn tất các chỉ tiêu của chương trình.
“Các cơ quan, tổ chức, đơn vị hãy xác định tinh thần đi cùng nhau, làm cùng nhau và hoàn thành xuất sắc các mục tiêu trong Chương trình IPv6 cho CQNN như đã thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về IPv6”, Thứ trưởng đề nghị.
(Xem tư liệu Quyết định Phê duyệt chương trình thúc đẩy, hỗ trợ chuyển đổi sang IPv6 cho cơ quan nhà nước giai đoạn 2021 - 2025)
Vân Anh
ictnews Trên cơ sở các yếu tố đi đầu về ứng dụng IPv6, Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) đã lựa chọn Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APAC) để tổ chức Chương trình đào tạo triển khai IPv6 trong mạng 5G.
" alt=""/>Công bố chương trình hỗ trợ chuyển đổi sang IPv6 cho cơ quan nhà nước đến năm 2025Thấu hiểu sự khó khăn trong việc giảng dạy, cũng như điều kiện để các em học sinh được tiếp cận với giáo dục thời đại 4.0, chương trình “VietNamNet kết nối ước mơ” do Báo VietNamNet đã hỗ trợ nhà trường, kết nối với các doanh nghiệp để kêu gọi kinh phí mua 20 bộ máy vi tính, tương đương 200 triệu đồng.
![]() |
Đại diện Báo VietNamnet và nhà tài trợ trao 200 triệu đồng cho Trường TH Nguyễn Thị Tốt. |
![]() |
Ông Đặng Ngọc Chính - Đại diện Báo VietNamNet (phải) và thầy giáo Phạm Công Cẩn - Hiệu trưởng nhà trường. |
Đồng hành cùng chương trình của Báo VietNamnet lần này là Công ty cổ phần Kinh doanh Địa ốc Him Lam và Công ty cổ phần Đầu tư Nam Long. Mỗi đơn vị tài trợ 100 triệu đồng
Ông Nguyễn Chí Thiện – Chủ tịch UBND xã Vĩnh Hựu chia sẻ với VietNamNet: “Trong thời gian qua, được sự chỉ đạo của Phòng Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) huyện Gò Công Tây, cũng như sự chỉ đạo của Đảng ủy UBND xã, chất lượng giảng dạy trong nhà trường hằng năm có nâng lên, đáp ứng được nhu cầu giáo dục và đào tạo tại địa phương.
Trong thời gian qua, Phòng GD&ĐT và UBND xã rất chú trọng quan tâm về cơ sở vật chất cho nhà trường, tuy nhiên nguồn lực ở địa phương còn nhiều khó khăn, hạn chế. Nay nhờ có sự giúp đỡ của Báo VietNamNet và các đơn vị tài trợ, giúp nhà trường có điều kiện trang bị 20 máy tính, thay mặt Đảng ủy UBND xã Vĩnh Hựu, tôi xin trân trọng cảm ơn”.
![]() |
Đại diện Báo VietNamNet, đơn vị tài trợ đi tham quan trường học. |
![]() |
Thư viện thân thiện còn khá đơn sơ, thiếu thốn. |
Trong buổi gặp gỡ, thầy giáo Phạm Công Cẩn – Hiệu trưởng Trường TH Nguyễn Thị Tốt bày tỏ sự xúc động khi nhận được sự quan tâm của Báo VietNamNet cùng các nhà tài trợ.
“Đại diện nhà trường, tôi xin hứa với các nhà hảo tâm là sẽ phục vụ đúng mục đích tài trợ. Nhà trường cũng luôn đặt mục tiêu đầu tư cho phòng học của các em học sinh trước, sau đó mới là phòng làm việc của các thầy cô giáo”, Thầy Phạm Công Cẩn khẳng định.
Khánh Hòa
Con trai không may gặp tai nạn, bị vỡ sọ, gãy chân trái. Cô Dương Thị Chính phải bán hết gà, lợn và chiếc xe máy cũ được 9 triệu đồng để đưa con đi viện.
" alt=""/>VietNamNet trao 200 triệu đồng để trang bị máy vi tính cho Trường TH Nguyễn Thị Tốt