Sự xuất hiệnChứng bệnh ngủ li bì lần đầu tiên được quan sát thấy vào thế kỷ 17, khi một số người ở London (Anh) đột nhiên rơi vào trạng thái buồn ngủ kéo dài với các triệu chứng tương tự như bệnh viêm não, không tỉnh dậy sau vài tuần, không uống, không ăn… Người ta đã cố gắng đánh thức họ bằng tiếng ồn, ánh sáng và bằng nhiều cách khác, nhưng vô ích. Căn bệnh này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1917 bởi bác sĩ tâm thần và thần kinh học người Áo Konstantin von Economo, người gọi nó là “viêm não hôn mê” (vì vậy thỉnh thoảng người ta còn gọi là bệnh Economo).
Các triệu chứng đầu tiên thường xuất hiện khá đột ngột, bắt đầu bằng đau đầu và cảm thấy mệt mỏi, sau đó xuất hiện trạng thái lơ mơ, đôi khi kèm theo mê sảng nhưng bệnh nhân dễ tỉnh giấc. Bệnh có thể dẫn đến tử vong sớm hoặc sau vài tuần; nhưng nó có thể kéo dài trong nhiều tuần hoặc thậm chí vài tháng. Điều đáng sợ là căn bệnh này không có các triệu chứng đồng nhất - nó giống như một chứng thủy đậu nhiều đầu, biểu hiện theo những cách khác nhau.
 |
Qua hàng trăm năm, đến nay, nguồn gốc và phương pháp điều trị bệnh viêm não hôn mê vẫn là một thách thức lớn đối với các nhà khoa học. Ảnh: russian7.ru |
Một phần ba số bệnh nhân bệnh ngủ chết trong giai đoạn cấp tính, hôn mê không thể đánh thức hoặc rơi vào trạng thái mất ngủ nặng đến mức không thể bằng cách nào làm cho họ ngủ được, thường kết thúc bằng cái chết trong vòng 10 đến 14 ngày. Do cảm thấy khó thở nên trong khi ngủ, bệnh nhân thường thực hiện các tư thế khác lạ. Đôi khi mất ngủ đi kèm với sự phấn khích cao liên tục, khiến bệnh nhân trở nên điên cuồng, cả về thể xác lẫn tinh thần.
Những bệnh nhân này ở trong trạng thái phấn khích và vận động không ngừng cho đến khi chết, do hoàn toàn kiệt sức trong 1 tuần hoặc 10 ngày. Tổng số nạn nhân bị chết ước tính khoảng 1,6 triệu người (có tài liệu ghi là 5 triệu, dịch bệnh kéo dài 10 năm), khoảng 20% bệnh nhân sống sót cần được chăm sóc chuyên nghiệp cho đến hết đời; dưới 1/3 số bệnh nhân hồi phục hoàn toàn.
Bệnh viêm não hôn mê đã không tái phát trong hơn hai thế kỷ - cho đến mùa đông năm 1916-1917, khi người dân ở Vienna (Áo) và các thành phố châu Âu khác đột nhiên bắt đầu buồn ngủ. Một trong những trường hợp đầu tiên được ghi nhận gần Verdun ở Pháp, nơi căn bệnh tấn công và đã cướp đi sinh mạng của một số quân lính Atlanta. Trong đại dịch, tất cả mọi người đều được chẩn đoán mắc bệnh ngủ, vì giấc ngủ quá dài dẫn đến tử vong là dấu hiệu duy nhất của căn bệnh.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, mọi thứ được cho là do quá tải và mệt mỏi kinh niên của người lính. Các bác sĩ cũng có lúc cho rằng nguyên nhân gây ra các triệu chứng bất thường của họ là do khí mù tạt, được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh. Nhưng những người dân thường sau đó cũng bắt đầu bị mắc bệnh, nên các bác sĩ phải thừa nhận không phải do khí độc. Căn bệnh này lây lan nhanh chóng trên khắp hành tinh cùng lúc với dịch cúm Tây Ban Nha, vốn khiến 50 triệu người thiệt mạng, khiến ít người quan tâm hơn.
Chứng bệnh ngủ ở Liên Xô
Từ châu Âu, bệnh viêm não hôn mê đã ập đến Liên Xô. Tại Nizhny Novgorod, trường hợp mắc bệnh đầu tiên được ghi nhận vào tháng 3/1921, và trong vòng 3 năm sau đó, tại vùng lãnh thổ này, 18 nam giới và 13 phụ nữ đã bị mắc bệnh. Tại Moscow, những người đầu tiên mang mầm bệnh xuất hiện vào tháng 9/1922, 2 tháng sau đó có 1 đợt tăng đột biến số bệnh nhân với các triệu chứng lạ - ngủ li bì, khó thở, mắt bị liệt, và sốt, rất khó để đánh thức, họ ngủ thiếp đi ngay cả khi đang ăn.
 |
Bệnh viêm não hôn mê là một trong những căn bệnh kỳ lạ nhất trong lịch sử nhân loại. Ảnh: livejournal.com |
Các bác sĩ ghi nhận, trên bệnh nhân cơ mắt bị liệt lan rộng, mí mắt bị sụp xuống, một số trường hợp còn phát triển thành lác; không thể xác định tầng lớp dân nào có nguy cơ mắc bệnh và tỷ lệ mắc bệnh - tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, giới tính và thành phần xã hội, đều bị bệnh. Vì bệnh ngủ lây truyền qua các giọt nhỏ trong không khí, người ta tin rằng tác nhân gây bệnh là một loại virus chưa xác định. Có suy đoán rằng việc bùng phát có liên quan đến hậu quả của dịch cúm Tây Ban Nha hoành hành vào năm 1918-1919.
Hoặc người châu Âu bị suy yếu bởi bệnh cúm, trở thành “con mồi dễ dàng” cho loại virus mới, hoặc viêm não trở thành một biến chứng muộn của bệnh cúm Tây Ban Nha. Theo Giáo sư Khoa các bệnh thần kinh tại Đại học Moscow Mikhail Margulis, đầu năm 1923, số ca mắc bệnh ở thủ đô Liên Xô khoảng 100, với tỷ lệ mắc cao nhất vào tháng Giêng. Ông mô tả các triệu chứng của bệnh ngủ: các bệnh nhân rơi vào một giấc ngủ kéo dài rất lâu, nhưng họ vẫn tỉnh táo một phần.
Giấc ngủ có thể kéo dài từ một tuần đến một tháng, phụ thuộc vào mức độ phức tạp của dạng bệnh và đặc điểm của hệ thống miễn dịch của con người. Trong số những bệnh nhân của Bệnh viện Старо-Екатерининская được chẩn đoán mắc chứng này, cứ bốn người thì có một người tử vong. Những người hồi phục đã cố gắng tỉnh dậy không bao giờ có thể trở lại cuộc sống bình thường của họ, họ vẫn bị liệt hoặc mất trí; biến chứng vô hại nhất sau cơn bệnh là chứng lác mắt.
Dịch bệnh ngủ ở Liên Xô đã trở thành tình trạng khẩn cấp thực sự, một ủy ban đã được thành lập để nghiên cứu bệnh Economo. Các quan sát lâm sàng phong phú đã trở thành cơ sở cho các chuyên khảo của N. Chetverikov, A. Grinshtein, cũng như các bộ sưu tập y học tập thể đã được xuất bản. Các chuyên gia này ghi nhận sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh ngủ trong dân số Do Thái, cũng như mối tương quan của căn bệnh này với chấn thương và các bệnh tật khác.
Tuy nhiên, y học Liên Xô không thể phác thảo phương pháp điều trị hiệu quả, Phương Tây cũng chìm trong những phỏng đoán. Các bác sĩ Liên Xô đã đặt cược vào việc tăng cường khả năng miễn dịch, cải thiện chế độ ăn uống tổng thể, hoạt động thể chất hợp lý và chăm sóc y tế miễn phí, bao gồm cả việc khám sức khỏe hàng năm. Để bảo vệ bản thân khỏi bị nhiễm trùng, Margulis khuyên nên thực hiện “các biện pháp phòng ngừa tương tự như đối với các bệnh truyền nhiễm khác”.
Bệnh ngủ lây lan trên toàn cầu đến năm 1927, 5 triệu người đổ bệnh vì hôn mê, nhưng tại tất cả các quốc gia, dịch bệnh đã biến mất đột ngột và bí ẩn như khi nó bùng phát. Ngày nay, bệnh viêm não Economo được gọi là một “bệnh lâm sàng hiếm gặp”, nó chưa bao giờ trở lại với quy mô ồ ạt. Đợt bùng phát lớn cuối cùng đã được ghi nhận trên lãnh thổ của Liên Xô cũ - vào năm 2014, 33 cư dân của vùng Akmola của Kazakhstan đã bị nhiễm bệnh.
Trong hàng trăm năm qua, những phòng thí nghiệm tối tân nhất và những nhà khoa học hàng đầu đã cố gắng giải thích hiện tượng viêm não hôn mê và phát triển một phương pháp chữa trị, nhưng “virus buồn ngủ” - tác nhân gây bệnh dịch viêm não hôn mê vẫn chưa được phân lập, căn bệnh vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử.
Theo VOV

Những con số báo hiệu đại dịch Covid-19 chấm dứt
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra hai viễn cảnh cho thấy đại dịch Covid-19 sẽ kết thúc như thế nào. Đó là sự kết thúc về mặt y tế và xã hội.
" alt=""/>Căn bệnh bí ẩn nhất trong lịch sử y học thế giới
Tình báo hình ảnh (IMINT - Imagery intelligence) của Mỹ là phương thức tình báo khai thác hình ảnh thu được từ máy chụp ảnh thông thường, thiết bị hồng ngoại, laser, các máy cảm ứng quang phổ và radar. Các thiết bị này tạo ra những hình ảnh điện quang, hình ảnh kỹ thuật số của các đối tượng trên phim, phương tiện chiếu điện tử hay trên các phương tiện truyền thông khác.Trong tác chiến, IMINT giúp người chỉ huy nắm chắc hơn tình hình chiến trường, cung cấp hình ảnh để cập nhật bản đồ hoặc đồ họa và hỗ trợ công tác lập kế hoạch chi tiết. Cơ quan phụ trách tình báo hình ảnh quốc gia Mỹ là Văn phòng trinh sát quốc gia (NRO-National Reconnaissance Office), thành lập năm 1961 và được công khai hóa năm 1992.
 |
Một cơ sở của NRO ở Colorado, Mỹ. Ảnh: Wikipedia |
Nhiệm vụ của NRO là thu thập và quản lý toàn bộ thông tin cũng như hình ảnh thu được từ vệ tinh tình báo; bảo đảm cho Mỹ có được công nghệ và các phương tiện trên không cần thiết để thu thập tin tình báo trên thế giới. Nhiệm vụ này được thực hiện thông qua công tác nghiên cứu, phát triển, mua sắm và hoạt động của các loại vệ tinh tình báo quốc gia.
Giám đốc NRO do Tổng thống Mỹ chỉ định và Quốc hội chấp thuận. Bộ trưởng Quốc phòng phối hợp với Giám đốc Tình báo trung ương Mỹ chịu trách nhiệm quản lý hoạt động của NRO, trong đó, Giám đốc Tình báo xác định các ưu tiên và yêu cầu đối với việc thu thập tư liệu từ vệ tinh. NRO được biên chế nhân viên lấy từ CIA và các cơ quan Bộ Quốc phòng Mỹ.
Các nguồn khai thác, thu thập hình ảnh
Có ba nguồn khai thác, thu thập hình ảnh cơ bản, đó là nguồn quốc gia, nguồn dân sự và nguồn thương mại.
Nguồn quốc gia là các hình ảnh thu được từ hệ thống thu thập của Bộ Quốc phòng, phục vụ cho Tổng thống Mỹ, Bộ trưởng Quốc phòng, các cơ quan trong và ngoài quân đội, đáp ứng yêu cầu quốc gia và chỉ huy chiến đấu.
Ngoài ra, đó có thể là những hình ảnh thu thập được từ các hệ thống không phải của quốc gia như thiết bị chụp ảnh xách tay (phim, kỹ thuật số, video), ảnh chụp từ máy bay không người lái và ảnh chụp từ các máy ảnh gắn trên súng…
Nguồn dân sự là các dữ liệu hình ảnh do chính phủ tài trợ thu thập, xử lý và phân bổ.
Nguồn thương mại là hệ thống ảnh do các công ty thương mại thu thập để kiếm lợi nhuận. Khi xảy ra “khủng hoảng”, theo hợp đồng các công ty này kí với Chính phủ Mỹ, các hình ảnh vệ tinh thương mại sẽ được cung cấp cho Chính phủ Mỹ theo giá thị trường.
Điều này giúp bảo vệ thông tin liên quan đến các hoạt động tác chiến của Mỹ, không cho đối phương khai thác từ các hệ thống ảnh thương mại. Văn phòng xử lý ảnh trung tâm (CITO - Central Imagery Tasking Office) chịu trách nhiệm đặt hàng ảnh thương mại và luôn sẵn sàng phục vụ cho Bộ Quốc phòng Mỹ.
Hình ảnh có thể khai thác ở cấp quốc gia và khai thác trực tiếp. Khai thác cấp quốc gia là quá trình khai thác hình ảnh đáp ứng các yêu cầu của Tổng thống, Hội đồng An ninh quốc gia, Quốc hội hoặc các yêu cầu chung của cộng đồng tình báo. Khai thác trực tiếp là quá trình khai thác hình ảnh phục vụ cho các nhiệm vụ được giao của một cơ quan, một sở chỉ huy.
Phân tích tin IMINT
Công đoạn quan trọng nhất trong chu trình tình báo IMINT là phân tích tin, có 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1, khai thác nhanh thông tin từ các hình ảnh thu được và báo cáo kết quả sau một khoảng thời gian cụ thể. Giai đoạn này thỏa mãn các yêu cầu ưu tiên về sử dụng trực tiếp và/ hoặc xác định những hoạt động đáng chú ý. Kết quả của giai đoạn 1 sẽ là báo cáo hình ảnh giai đoạn đầu tiên.
Giai đoạn 2, khai thác tỉ mỉ hơn những hình ảnh mới nhận được, báo cáo các tin tình báo khai thác từ hình ảnh, đồng thời đáp ứng các yêu cầu ra tin và các yêu cầu về thời gian. Tin từ các nguồn tình báo khác có thể hỗ trợ cho giai đoạn này. Kết quả của giai đoạn 2 là báo cáo hình ảnh bổ sung.
Giai đoạn 3, phân tích chi tiết tất cả các hình ảnh hiện có liên quan tới một yêu cầu thông tin cụ thể, phục vụ khâu ra tin và báo cáo tin tiếp theo sau khi phân tích ảnh một thời gian cụ thể. Đây là giai đoạn phân tích chi tiết về một mục tiêu ảnh hoặc một chủ đề ảnh, sử dụng hình ảnh như một nguồn dữ liệu chính nhưng không phối hợp với các nguồn tin khác nếu không cần thiết.
Hiện nay Mỹ là quốc gia đứng đầu về IMINT. Các vệ tinh tình báo ảnh đã trở thành nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho quân đội Mỹ trong cả thời chiến lẫn thời bình. Hàng chục vệ tinh tình báo ảnh quân sự của Mỹ đang hoạt động trên các quỹ đạo quanh Trái đất. Ngoài ra, Mỹ còn sử dụng một số hệ thống vệ tinh viễn thám khác như Landsat, Eros…
Xem tin tức thế giới trên VietNamNet
Nguyên Phong

Bí mật cách nghiên cứu tin của giới tình báo quốc tế
Tình báo các nước đều ý thức được vị trí, vai trò của hoạt động phân tích tin tình báo, nhất là tin công khai. Trong đó, họ thường áp dụng các phương pháp sau.
" alt=""/>Tình báo hình ảnh của Mỹ hoạt động như thế nào