- Trưa 21/9, Bộ GD-ĐT đã gửi tới các cơ quan báo chí ý kiến của Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Hữu Độ về việc sử dụng sách giáo khoa (SGK)làm sao để tránh lãng phí.Bộ GD-ĐT kiểm tra việc in và phát hành sách giáo khoa
TP.HCM cam go viết sách giáo khoa mới
Sách giáo khoa nhiều nước có cách thiết kế bài học tương tự
Thứ trưởng Độ giải thích rằng: Thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 9/12/2000 của Quốc hội về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, Chính phủ đã giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) xây dựng chương trình, tổ chức biên soạn SGK để thực hiện trên phạm vi cả nước. SGK biên soạn theo Chương trình Giáo dục phổ thông hiện hành (gọi tắt là Chương trình 2000) được triển khai ở các cơ sở giáo dục từ năm học 2002-2003.
Phiên bản SGK hiện nay là phiên bản đã được sử dụng ổn định từ nhiều năm nay.
Khi biên soạn SGK hiện hành, các tác giả đã xây dựng hệ thống bài tập trong SGK theo hướng đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức trình bày nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh, đồng thời giúp học sinh làm quen với các dạng bài tập khác nhau trong kiểm tra, đánh giá theo xu thế chung của các nước phát triển.
 |
Một giờ học của học sinh miền núi. Ảnh: Lê Anh Dũng |
Do đó, ngoài các câu hỏi, bài tập dạng truyền thống (bài tập tự luận), các tác giả có đưa vào SGK các dạng bài tập trắc nghiệm với các hình thức đặc thù như điền khuyết, lựa chọn đúng/sai, cặp đôi (nối kết)…
Do đặc thù của môn học, ngoài các câu hỏi, bài tập dạng truyền thống (bài tập tự luận), đối với một số SGK, nhất là SGK Toán 1, Tiếng Anh, các tác giả có đưa vào các dạng bài tập trắc nghiệm và các dạng bài tập khác với “câu lệnh” ngắn gọn, dễ hiểu và rõ ràng như: Điền/Viết vào chỗ chấm hoặc ô trống, lựa chọn Đúng/Sai, Nối, Khoanh, Vẽ, Đánh dấu, Tô màu,…
Bộ GD-ĐT cũng dẫn ra các so sánh với quá khứ và so sánh với các nước khác để cho thấy cách thiết kế bài học như trên đã từng xuất hiện.
Chẳng hạn, các SGK Toán 1 xuất bản giai đoạn 1976-1979; sách Toán 2 xuất bản giai đoạn 1980-1989; sách Toán 1 xuất bản giai đoạn 1990-2002, đều có các dạng câu hỏi, bài tập trên.
Các SGK Toán của các nước tiên tiến trên thế giới cũng đều thiết kế các dạng bài học với hình thức tương tự.
Tuy không yêu cầu học sinh làm bài hay viết trực tiếp vào SGK mà cần làm vào vở viết hoặc vở bài tập nhưng nếu giáo viên không hướng dẫn ngay từ đầu năm học và nhắc nhở thường xuyên thì các em sẽ có thói quen viết trực tiếp vào SGK, gây lãng phí dư luận phản ánh.
Sẽ sửa thiết kế khi làm SGK mới để tránh lãng phí
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Hữu Độ cho hay: Về quan điểm chỉ đạo, Bộ GDĐT xác định: SGK cần được sử dụng, bảo quản tốt để có thể sử dụng lại được khi cần thiết, tránh lãng phí cho gia đình học sinh, xã hội.
Trong sách giáo viên có yêu cầu nhắc nhở học sinh không viết vào sách để SGK có thể sử dụng được nhiều lần.
Cụ thể, trong phần thông tin gửi cho báo chí, Bộ GD-ĐT đã liệt kê các văn bản để minh chứng cho việc đã chỉ đạo các cơ sở sử dụng SGK tiết kiệm.
Chẳng hạn, ngay từ năm học đầu tiên (2002-2003) triển khai thay SGK mới ở lớp 1, cùng với việc quán triệt trong các khóa bồi dưỡng, tập huấn giáo viên, CBQL chuẩn bị cho việc thực hiện SGK mới, Bộ GD-DT đã có Công văn số 6176/TH ngày 19/7/2002 về việc Hướng dẫn thực hiện mục tiêu, kế hoạch dạy học lớp 1 theo Chương trình và SGK mới.
Trong Công văn (mục 4. Thiết bị dạy học) có nêu rõ: “Các trường cần xây dựng tủ sách dùng chung để tạo điều kiện cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn được mượn sách. SGK cần được luân chuyển sử dụng trong nhiều năm”.
Năm học 2004-2005, Bộ GD - ĐT tiếp tục ban hành Công văn số 7590/GDTH ngày 27/8/2004 về việc Hướng dẫn giảng dạy các môn học ở lớp 3 cho các vùng, miền và các lớp dạy học 2 buổi/ngày. Trong Công văn (mục 4. Sử dụng sách) có yêu cầu: “Giáo viên căn cứ vào văn bản phân phối chương trình môn Tiếng Việt để thực hiện các bài dạy trong SGK Tiếng Việt 3, hướng dẫn học sinh sử dụng SGK một cách có hiệu quả (tận dụng cả kênh hinhg và kênh chữ) nhằm đạt được các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng của môn học. Cần nhắc nhở học sinh có ý thức giữ gìn (không được viết, vẽ,… vào sách) để sử dụng SGK được lâu bền”.
Để khắc phục tình trạng SGK chỉ sử dụng một lần, gây lãng phí như phản ánh của dư luận, Bộ GD-ĐT sẽ tiếp tục tăng cường chỉ đạo, yêu cầu các địa phương, các nhà trường hướng dẫn học sinh không nên viết vào sách và giữ gìn, bảo quản sách cẩn thận để có thể sử dụng được lâu dài.
Giáo viên trong quá trình dạy học cần hướng dẫn học sinh làm bài tập, viết kết quả, trả lời câu hỏi vào vở viết, vở bài tập.
Hiện nay, Bộ GD-ĐT đang yêu cầu Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam kiểm tra, rà soát đánh giá cụ thể việc in ấn và phát hành SGK để có đề xuất chỉnh sửa cụ thể thiết kế nhằm hạn chế tối đa việc học sinh ghi vào SGK, gây lãng phí.
Sắp tới, khi tổ chức biên soạn sách giáo khoa theo Chương trình GDPT mới, Bộ GD-ĐT sẽ quán triệt với các nhà xuất bản tham gia biên soạn SGK và các Hội đồng thẩm định quốc gia về vấn đề này để khắc phục tình trạng học sinh viết vào SGK, tránh lãng phí như hiện nay.
Chiều 21/9, ông Hoàng Lê Bách, Tổng Giám đốc Nhà xuất bản Giáo dục cho biết, từ năm 2011 đến nay giá SGK không tăng. Thực tế mỗi năm có gần 35% lượng SGK cũ được học sinh sử dụng lại. Cụ thể, năm 2018 cả nước có gần 17 triệu học sinh. Theo danh mục SGK được Bộ GD-ĐT phê duyệt từ lớp 1 đến lớp 12 thì trung bình mỗi học sinh cần 10,5 bản sách. Nếu tất cả học sinh đều dùng SGK mới thì số lượng cần in là 170 triệu bản. Trong khi đó, năm 2018 số lượng SGK được NXB GD VN phát hành là 110 triệu bản, đáp ứng nhu cầu của gần 65% học sinh; số còn lại là sử dụng sách cũ, mượn thư viện hoặc dùng chung. Ông Bách cũng lưu ý cần phân biệt rõ SGK và sách tham khảo. SGK do Bộ GD-ĐT ban hành, sử dụng thống nhất trong toàn quốc, thông thường là sách học sinh và sách giáo viên. Còn sách tham khảo là học sinh chọn mua theo nhu cầu, ngoài NXB GDVN thì còn nhiều NXB khác cũng xuất bản. |
Song Nguyên

"TP.HCM không soạn sách giáo khoa riêng cho thành phố"
Đại diện Sở GD-ĐT TP.HCM cho biết, đế đón đầu chủ trương "một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa (SGK)" trong những năm tới, địa phương này đang lấy SGK giáo khoa cũ viết lại theo phương pháp mới.
" alt=""/>Bộ Giáo dục: 'Tái sử dụng sách giáo khoa để tránh lãng phí'

Trần Quang Đức tốt nghiệp Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc, chuyên ngành Hán Nôm. Anh từng đoạt giải nhất trong cuộc thi Hán ngữ toàn quốc, và đã giành được học bổng toàn phần tại Đại học Bắc Kinh. Tốt nghiệp đại học ra trường, vốn kiến thức chữ Hán của anh càng được bổ sung lấp đầy. Cuốn sách "Ngàn năm áo mũ" được xuất bản, ghi nhận một sự làm việc hết mình, sự nghiên cứu say mê chữ Hán của anh. Bởi, phải có một kiến thức sâu mới có thể nghiên cứu được vốn tư liệu đồ sộ để viết nên cuốn sách.
 |
Trần Quang Đức trong buổi tọa đàm ra mắt cuốn sách "Ngàn năm áo mũ". |
"Ngàn năm áo mũ" là một công trình nghiên cứu sâu rộng về trang phục Việt trong ngót nghét 1.000 năm từ thời Lý (1009) đến thời Nguyễn (1945) về trang phục cung đình và trang phục dân gian của người Việt. Cuốn sách dày 400 trang, bao gồm những ghi chép tỉ mỉ, cùng đầy đủ những hình ảnh minh họa.
Trang phục của người Việt trong cả 1.000 năm phong kiến được miêu tả lại một cách đầy đủ, tỉ mỉ, chi tiết. Vì trang phục người Việt thay đổi theo từng triều đại, nên các chương, các phần của cuốn sách cũng được chia ra theo từng triều đại khác nhau. Mỗi triều đại, tác giả lại chia ra làm 2 phần lớn: trang phục thường dân và trang phục cung đình. Trang phục cung đình lại được chia ra nhiều mảng nhỏ: Trang phục hoàng đế (lễ phục, triều phục, thường phục, quân phục); trang phục bá quan; trang phục hậu cung; trang phục quân đội… Không chỉ đưa ra đầy đủ hình dáng, hoa văn, màu sắc, tác giả còn miêu tả tỉ mỉ các phụ kiện đi kèm như hoa cài mũ, đai lưng, chi tiết của hài…
Có hai tư tưởng chính ảnh hưởng đến việc lựa chọn, đặt định quy chế trang phục cung đình của triều đình Việt Nam là tư tưởng Đế vương và quan niệm Hoa Di. Quan niệm coi văn minh Trung Hoa là thước đo tiến bộ, nên trang phục cung đình Việt Nam các đời vẫn được đặt định theo chuẩn mực của các quy chế Trung Hoa cổ điển, ngoại trừ hai triều đại Nguyên, Thanh. Nhưng, tư tưởng đế vương, ngang hàng với thiên tử Trung Hoa của vua quan người Việt lại được thể hiện rất rõ qua lễ phục của triều đình. Chẳng hạn như, ngay từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần, trong các dịp đại lễ, nhà vua đều mặc áo Cổn, đội mũ Miện, tương tự Hoàng đế Trung Quốc. Theo quy chế đó, Long Cổn còn gọi là Cổn phục, hoặc gọi tắt là Cổn, là lễ phục của đế vương và vương công đại thần. Như Phạm Đình Hổ ghi nhận, một bộ Cổn Miện dành cho đế vương mũ Miện phải có 12 lưu, lưu có 12 ngọc, Cổn phục thêu 12 chương. Trong đó, chương là các dạng hoa văn thêu trên lễ phục, tượng trưng cho trời đất, vạn vật. Các vị vua nước Việt luôn sử dụng mũ Miện 12 lưu, áo Cổn 12 chương, khác với vua Triều Tiên chỉ dùng mũ 9 lưu, áo 9 chương theo quy chế dành cho vương công, đại thần. "Bất kể quan niệm của người phương Bắc cho rằng, trời chỉ có một thiên tử, thiên hạ chỉ có một hoàng đế, song không ít thủ lĩnh nước Việt mỗi khi giành được độc lập, giành quyền làm chủ cõi đất phương Nam đều xưng đế".
Ngoài ra, trang phục còn gián tiếp thể hiện sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, mỹ thuật của một thời đại. Nhà Lý là triều đại thịnh trị, bởi vậy trang phục cung đình trong thời kỳ này cũng hết sức cầu kỳ, sang trọng: "Riêng với trang phục của bá quan, Văn hiến thông khảo cho biết mũ Phốc Đầu, ủng, hốt, hài đỏ, đai vàng, đai sừng tê của đoàn sứ thần nhà Lý, thứ nào cũng được dát vàng; phục sức Ngư Đại đều được sử dụng ở các nước đồng văn cùng thời, nhưng Ngư Đại vàng của Đại Việt được miêu tả là rất dài và lớn...".
Còn như trang phục nhà Nguyễn, khảo cứu nhận định: "Đặt trong nhãn quan phong kiến đương thời, triều đình nhà Nguyễn bất luận thế nào cũng đã sở hữu một nền văn hiến áo mão có bề dày truyền thống và những cách tân đặc sắc, tự tin sánh ngang với các quốc gia Nho giáo như Trung Quốc, Triều Tiên, khiến Khâm sứ nhà Thanh là Lao Sùng Quang công nhận: Gần gũi Trung Hạ, tôn sùng Nho giáo, yêu chuộng thi thư, cùng được coi là đất thanh danh văn vật, ắt phải nói đến hai nước Triều Tiên và Việt Nam...".
Trong khi đó, trang phục dân gian không biến động nhiều, phổ biến là kiểu áo giao lĩnh, tứ thân, hay lối ăn mặc cởi trần đóng khố của đàn ông và yếm, váy giản tiện của đàn bà tồn tại qua hàng trăm năm lịch sử. Sự kiện vua Minh Mạng cấm "quần không đáy" là một biến cố lớn lao, để rồi chiếc áo dài năm thân đi vào đời sống dân gian và trở thành trang phục quan trọng bậc nhất của người Việt.
Sinh năm 1985 nhưng Trần Quang Đức có cái vẻ già dặn, nghiêm túc của một người làm công tác nghiên cứu. Trong phần tọa đàm với độc giả, anh trả lời đầy đủ, cặn kẽ những thắc mắc của những người có mặt. Buổi ra mắt có sự tham dự của các nhà nghiên cứu, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, kiến trúc sư... và những người trẻ đam mê, thích thú với cuốn sách.
Nói về công việc làm sách, Trần Quang Đức cho biết, trong tất cả các cuốn sử, có ít cuốn sách ghi chép riêng về trang phục. Thế nên, anh đã phải bỏ nhiều công tìm kiếm tư liệu từ nhiều nguồn. Thời Lý, Trần hầu như còn rất ít các hiện vật. Anh phải tìm từ những ghi chép trong các cuốn sách, cộng với cả một quá trình tìm tòi, xem xét các hiện vật, rồi vào các đình chùa nghiên cứu, khảo thí, từ đó anh mới đúc kết, và rút ra diện mạo của trang phục. "Sử liệu có đến đâu tôi làm đến đó chứ không hề suy diễn" - Đó là một khẳng định chắc chắn của Trần Quang Đức. Ví dụ như khi "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi lại việc các quan trong triều vào chầu đi chân đất, nhưng đến thời Lý thì lại đi hia. Đó là một đặc điểm khác nhau giữa hai triều đại. Trần Quang Đức căn cứ vào có khi chỉ những chi tiết nhỏ như vậy, cộng với việc tìm tòi, so sánh từ nhiều nguồn tư liệu đồng đại. Thấy khớp với nhau, anh mới đưa ra kết luận, đánh giá. Hay trong các sử sách cũ có ghi chép lại về việc các sứ thần đi sứ, đều có ghi lại cách ăn mặc, đó cũng là một chi tiết để anh đưa ra so sánh. Cũng như thời phong kiến rất coi trọng các trang phục, vì trang phục là lễ nhạc, khi vào chầu, nhìn cách ăn mặc của các quan trong triều là có thể phân biệt được các cấp bậc quan trong triều.
Khi tìm hiểu về trang phục dân gian, có khi chỉ từ những ý tứ như "Tục truyền thượng cổ dân ta/ Đàn ông búi tó đàn bà vấn khăn" cũng được anh coi đó là một duyên cớ để đi tìm đặc điểm trang phục dân gian người Việt.
Nếu xem số tài liệu Trần Quang Đức tham khảo để viết được 400 trang sách, ta thấy anh đã phải sử dụng tới 230 cuốn sách tham khảo, cả những bức tranh có cách đây 600 năm, hay những bức tranh của người Nhật vẽ người Việt Nam cách nay 400 năm, cùng nhiều chuyến đi điền dã khắp các đình chùa, lăng tẩm.
Nhiều ý kiến tham luận, trong đó có cả ý kiến của các kiến trúc sư, nhà nghiên cứu tựu trung lại đều đánh giá cao công trình nghiên cứu nghiêm túc của Trần Quang Đức.
Ngồi cạnh tôi hôm ấy là một bà mẹ trẻ. Chị nói chị tận bên Ngọc Lâm. Thằng cu lớn nhà chị năm nay học lớp 4, bắt đầu học môn sử, chị muốn cháu đến nghe để hiểu biết thêm về lịch sử từ những hình ảnh trực quan sinh động. Có lẽ chỉ là một buổi nói chuyện đơn thuần thì khó có thể thu hút được những độc giả nhí như thế.
Ngoài sự nghiên cứu nghiêm túc, ở Trần Quang Đức còn có sự đam mê và dấn thân. Nếu không có sự dấn thân thì không thể nào hoàn thành được cuốn sách trong khoảng thời gian 3 năm như vậy. Trần Quang Đức đã một mình rong ruổi, với máy quay, máy chụp khắp các đình, đền, chùa Việt Nam từ Nam Định, Bắc Ninh, rồi Huế… cũng như các bảo tàng trong nước, rồi Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… Theo anh cho biết, về phần khảo cứu trang phục thời Lý Trần, giai đoạn xa hơn thời Nguyễn, vì có ít tư liệu, nên anh vẫn có nhiều điểm chưa ưng, và cũng sẽ chờ đợi tiếp vào những hiện vật sau này khai thác thêm.
Khi được hỏi về trang phục được dùng trong các phim cổ trang của Việt Nam, Trần Quang Đức cho biết: "Trang phục Việt có những cái bất biến, nổi bật như nhuộm răng đen và đi chân đất. Các đoàn làm phim muốn có những trang phục thật thuần Việt, nhưng lại mâu thuẫn, họ muốn thuần Việt, nhưng lại muốn người Việt phải đẹp và phải văn minh. Chính vì thế mà nhiều phim Việt, trang phục được hầu như chưa đúng".
"Ngàn năm áo mũ" ghi nhận sự làm việc và dấn thân của chàng trai trẻ Trần Quang Đức. Nhà nghiên cứu Trịnh Bách nhận xét: "Có lẽ đây là một trong những tập tài liệu văn hóa, lịch sử trang phục được nghiên cứu sâu và được biên soạn kỹ nhất ở Việt Nam". Sách sau khi phát hành lần đầu đã nhanh chóng được tái bản lần 2 và nhận được sự đón chào nồng nhiệt của các bạn trẻ. Điều đó cũng có thể nói rằng, các bạn trẻ vẫn rất say mê môn lịch sử, quan trọng là cách tiếp cận như thế nào của người làm sử. Và cách làm như "Ngàn năm áo mũ" cần phát huy
(Theo Công An Nhân Dân)" alt=""/>Chàng trai 'đi suốt ngàn năm'