Vanuatu, quốc gia gồm 83 đảo ở nam Thái Bình Dương, là thiên đường du lịch nhưng đang thu hút nhiều người Hàn bởi lý do "có thể mua quốc tịch".
Ở Hàn Quốc, các trường quốc tế được Bộ Giáo dục công nhận thường chỉ dành cho học sinh có cha hoặc mẹ mang quốc tịch nước ngoài hoặc trẻ đã sống ở nước ngoài ít nhất ba năm.
Bae muốn con mình được học trong môi trường đa văn hóa. Nếu cô trở thành công dân Vanuatu, con trai cô sẽ đủ điều kiện để nhập học trường quốc tế.
Mặt khác, chương trình quốc tịch đầu tư ở các đảo quốc vùng Caribbean và Thái Bình Dương đang nổi lên trong giới nhà giàu Hàn Quốc.
Để mua quốc tịch Vanuatu, họ thường yêu cầu đầu tư vào quốc gia này hoặc đơn giản là khoản đóng góp tiền mặt 130.000 USD một người, 150.000 USD cho vợ chồng và 180.000 USD cho gia đình bốn người.
"Vanuatu là một trong những điểm đến được ưa chuộng nhất do quy trình chỉ cần 3-6 tháng và không yêu cầu thời gian cư trú bắt buộc", Cho, giám đốc một công ty tư vấn di cư ở Seoul, nói. Đại sứ quán Vanuatu không có ở Hàn Quốc, ứng viên sẽ phải đến Malaysia, Dubai hoặc Hong Kong.
"Ứng viên có thể nhận hộ chiếu qua bưu điện", ông nói thêm. Công ty của Cho tính phí 1.500 USD mỗi người để xử lý hồ sơ xin quốc tịch.
Bae buộc phải từ bỏ quốc tịch Hàn Quốc nếu cô trở thành công dân Vanuatu. Cô cũng sẽ gia nhập nhóm nhỏ nhưng đang ngày càng tăng những người mang quốc tịch Vanuatu sống ở Hàn Quốc.
Dữ liệu từ Bộ Tư pháp cho thấy số người từ bỏ quốc tịch Hàn Quốc để lấy quốc tịch Vanuatu trong giai đoạn 2019-2022 là 18 người. Tuy nhiên, số liệu sau năm 2022 của công ty Cho cho thấy con số này sẽ tăng lên.
Chang, 33 tuổi, có con trai 10 tuổi học ở trường Quốc tế Busan, cho biết rất nhiều phụ huynh đã chọn sinh con ở nước ngoài hoặc xin quốc tịch từ các quốc gia Thái Bình Dương để đảm bảo tương lai học tập của con mình.
Năm ngoái, Hàn Quốc có 49 trường quốc tế được công nhận, theo dữ liệu từ Dịch vụ Thống kê Giáo dục Hàn Quốc. Học phí hàng năm của các trường quốc tế dao động 21.471 - 28.628 USD, số tiền tương đương với mức lương trung bình hàng năm của nhân viên văn phòng Hàn Quốc.
"Nhiều học sinh là con em của giám đốc điều hành và nhà ngoại giao", Chang nói. "Họ bị chỉ trích về việc mua quốc tịch, miễn điều đó không vi phạm pháp luật, nó nên được tôn trọng".
Bae cho rằng mức phí 130.000 USD để cô trở thành công dân Vanuatu là đáng giá, đặc biệt khi so với số tiền phụ huynh Hàn chi cho con vào các trường đại học hàng đầu. "Tôi nghe nói gánh nặng tài chính sẽ gấp đôi khi đứa trẻ chuẩn bị du học", cô nói.
Tổng chi phí trung bình nuôi dưỡng trẻ từ khi sinh ra đến vào đại học là 196.531 USD, theo báo cáo Tình hình chi phí giáo dục ở Hàn Quốcnăm 2020 của Viện Nghiên cứu Y tế và Xã hội Hàn Quốc.
Tuy nhiên, chính những trường dành riêng cho người nước ngoài là nơi phụ huynh đánh giá cao và tìm cách mua quốc tịch cho con vào học. "Họ cũng có cơ hội kết nối với các phụ huynh nước ngoài có nền tảng danh giá", Chang nói.
Luật sư Kim Hanna ở văn phòng luật Yulsaseojae, cho biết hiện không có cơ sở pháp lý nào để ngừng việc mua quốc tịch từ các quốc gia khác.
Luật Quốc tịch hiện hành đảm bảo quyền tự do từ bỏ quốc tịch. Nếu các cơ quan chức năng muốn ngừng việc sử dụng quốc tịch nước ngoài để trốn nghĩa vụ quân sự hoặc thuế, họ sẽ phải xây dựng các biện pháp khác.
"Nhưng luôn có những người tìm cách lách luật", ông nói.
Ngọc Ngân (Theo The Korea Herald)
" alt=""/>Người giàu Hàn bỏ quốc tịch cho con học trường quốc tếHôm chị đến, tôi gặp chị trước để hỏi han rồi mời chị lên phòng của sếp. Ông rời bàn làm việc, ra nắm tay, mời chị ngồi và hỏi thăm. Vốn đã có thông tin trước, tôi trả lời thay chị, nhưng ông nhắc nhở: "Để chị ấy trả lời. Tôi muốn trò chuyện trực tiếp". Tôi chỉ có nhiệm vụ dịch lại. Người phụ nữ bé nhỏ, ban đầu hơi co ro trước một ông Tây to lớn, tổng giám đốc công ty chồng chị. Nhưng trước thái độ ân cần của ông, chị dần bộc bạch những lo lắng của mình sau khi người đàn ông trụ cột trong gia đình đột ngột ra đi.
Trong cuộc gặp, sếp cố gắng hỏi nhiều thông tin nhất có thể. Và điều ông quan tâm nhất là đứa con gái duy nhất của anh chị. Cháu là tương lai, cuộc sống của cháu còn rất dài, công ty không muốn cái chết của anh ảnh hưởng đến sự phát triển và việc học tập của cháu.
Tổng giám đốc động viên chị an tâm, tập trung chăm lo cho cháu và sắp xếp lại cuộc sống. Khi cháu vào đại học, công ty sẽ lập quỹ học bổng để đồng hành cùng cháu. Sếp tiễn chị ra về và dặn, nếu có bất cứ khó khăn nào, hãy gọi cho ông hoặc cho vợ ông.
Sau khi chị về, ông yêu cầu tôi tính toán lại tất cả chi phí mà gia đình anh chị đã trang trải và ước tính số tiền chị sẽ nhận được từ cơ quan bảo hiểm, công đoàn. Hôm sau, chúng tôi thông báo, chi phí mà gia đình trang trải và những khoản họ nhận được gần như tương đương. Ông thở phào và quyết định: mức tiền lương của anh hiện tại sẽ được công ty chi trả hàng tháng vào tài khoản của chị cho đến khi con của họ tốt nghiệp đại học.
Đây không phải trường hợp đầu tiên nhận được hỗ trợ. Danh sách các hoàn cảnh tương tự trong công ty đã lên tới 14 người. Họ, hoặc là con em của những công nhân viên đã bất hạnh qua đời, gia cảnh khó khăn; hoặc chính là bản thân nhân viên bị bệnh tật, tai nạn giao thông, không còn khả năng lao động, thiếu nơi nương tựa. Mỗi tháng họ được hỗ trợ tiền cùng đợt lương của công ty. Người nhận loại trợ cấp này lâu nhất đã tám năm. Thế mới có chuyện, chúng tôi từng bị cơ quan bảo hiểm gửi công văn xuống yêu cầu giải trình, vì thấy dữ liệu chi tiền cho những người này từ cơ quan thuế, mà không đóng bảo hiểm xã hội.
Vốn không phải là một công ty có tiềm lực tài chính quá mạnh, trong bối cảnh khó khăn hiện tại, lãnh đạo công ty đã phải rất nỗ lực tính toán, cân đối thu chi để duy trì được chính sách phúc lợi này.
Tổng giám đốc từng nhiều lần trò chuyện với tôi sau giờ làm việc, để hiểu hơn về lối sống, hoàn cảnh riêng của nhân viên, công nhân dưới quyền ông. Ông là người Anh, sang Việt Nam mở công ty đã 28 năm. Trong công việc của mình, ngoài phát triển doanh nghiệp, điều ông trăn trở nhất là cải thiện và nâng cao đời sống cho từng nhân viên. Tôi tin đó không hề là những lời sáo rỗng sau những gì về ông mà tôi được chứng kiến.
Doanh nghiệp Việt Nam, trong bối cảnh suy thoái toàn cầu, đang trải qua những ngày tháng ảm đạm. Thiếu đơn hàng, không có nguyên liệu sản xuất, cạn vốn... hầu hết doanh nghiệp đang phải thu hẹp quy mô sản xuất, giảm giờ làm, thậm chí cắt giảm lao động. Nhiều doanh nghiệp đã có kế hoạch cho người lao động nghỉ Tết âm lịch... ba tháng.
Theo số liệu Trung tâm dịch vụ việc làm TP HCM, trong tháng 10 có hơn 10.440 người mất việc nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. Tổng số người mất việc 10 tháng qua là gần 128.000 người, tăng 26% so với cùng kỳ năm ngoái. Có những công ty phải cắt giảm 2.000-3.000 công nhân, phần lớn là các hợp đồng thời vụ hoặc người lao động lớn tuổi.
Những con số này vẽ ra một bức tranh rất khác các năm trước. Cuối năm nay, thay vì ồ ạt tuyển dụng thêm lao động để hoàn thành các đơn hàng, việc sa thải diễn ra hàng loạt. Đây là bài toán kinh tế mà mọi doanh nghiệp cần phải vượt qua để tồn tại. Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn, chất lượng và uy tín thực tế của một doanh nghiệp được phản ánh qua nhiều chiều cạnh, mà một trong số đó là cách doanh nghiệp hỗ trợ người lao động ở thời điểm gian nan nhất.
Mối ưu tiên nhất của sếp tôi lúc này là bằng mọi cách giữ được công ăn việc làm cho nhân viên. Khác với trước đây, thay vì cử cấp dưới đi công tác, ông di chuyển thường xuyên hơn, trực tiếp gặp gỡ và làm việc với đối tác nhiều hơn; mở rộng hơn bạn hàng ra ngoài các quốc gia quen thuộc. Tất cả với mục tiêu có được đơn hàng, giữ việc trước mắt cho công nhân. Ông nói 28 năm lập nghiệp ở Việt Nam đủ để ông hiểu ý nghĩa của một cái Tết no ấm với người dân nơi đây, đặc biệt là những con người phải tha hương tìm việc, cuối năm chỉ mong dành dụm chút tiền về với gia đình ở những vùng quê xa xôi, nghèo khó.
Sa thải để tiết kiệm chi phí luôn là lựa chọn dễ hơn việc cầm cự, hỗ trợ người lao động trong cơn bĩ cực. Tuy nhiên, làn sóng cắt giảm nhân sự hiện tại sẽ tạo ra áp lực lớn trong tương lai, khi một lượng lớn người lao động trở thành thất nghiệp, bị loại ra khỏi chính sách an sinh, bảo hiểm xã hội.
Doanh nghiệp vận hành không chỉ vì lợi nhuận ròng của tầng lớp lãnh đạo phía trên, mà trong những hoàn cảnh đặc biệt, còn cần san sẻ lợi ích với người lao động - những người góp phần làm nên sức mạnh của doanh nghiệp. Đó là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Tôi tin, quốc gia nào có càng nhiều doanh nghiệp ý thức về trách nhiệm xã hội của mình, quốc gia đó càng phục hồi nhanh hơn trong suy thoái và có cơ hội phát triển bền vững hơn.
Đặng Quỳnh Giang
" alt=""/>Giữ chân hay sa thải?