Nhiệt độ giảm cũng làm cơ thể tăng sản xuất hồng cầu và tiểu cầu dẫn đến máu vón cục tạo thành cục máu đông. Từ đó, tăng nguy cơ tắc nghẽn mạch máu, dễ dẫn đến nhồi máu não.
Năm dấu hiệu đột quỵ cần cảnh giác
- Dấu hiệu ở mặt: Mặt có biểu hiện thiếu cân xứng, miệng méo, nhân trung hơi lệch qua một bên so với bình thường, nếp mũi má bên yếu bị rũ xuống. Đặc biệt khi người bệnh nói hoặc cười sẽ thấy rõ dấu hiệu méo miệng và thiếu cân xứng trên mặt.
- Dấu hiệu ở tay: Cảm giác của người bị đột quỵ là tay bị tê mỏi, khó cử động, khó thao tác. Ngoài ra, người bệnh cũng cảm thấy đi lại khó khăn, không nhấc chân lên được.
- Dấu hiệu qua giọng nói: Người bị đột quỵ có thể gặp triệu chứng nói ngọng bất thường, môi lưỡi bị tê cứng, miệng mở khó, phải gắng sức mới nói được.
- Dấu hiệu qua nhận thức: Người bệnh có biểu hiện rối loạn trí nhớ, không nhận thức được, mắt mờ, tai ù không nghe rõ.
- Dấu hiệu ở thần kinh: Người bệnh cảm thấy nhức đầu dữ dội. Đây là triệu chứng nặng và khá phổ biến, nhất là người bệnh có tiền sử bị đau nửa đầu.
Thời gian vàng trong đột quỵ não là 3-4,5 giờ kể từ khi khởi phát dấu hiệu. Nếu phát hiện người bệnh cần được đưa đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt.
Để phòng tránh đột quỵ vào trời lạnh, cần giữ ấm cơ thể, nhất là vùng đầu và cổ; ngủ trong phòng kín gió. Buổi sáng trước khi rời giường nên có vài động tác vận động nhẹ làm nóng cơ thể, thích ứng với thời tiết, không nên xuống giường ngay khi vừa dậy; uống nước ấm, hạn chế ăn đồ lạnh, rượu bia, thuốc lá.
Trong quá trình chuyển đổi số, việc chuyển đổi cách thức vận hành sẽ phát sinh số tiền đầu tư lớn. Với các doanh nghiệp Nhà nước, do có sự kiểm soát chặt chẽ về đầu tư nên các dự án không thể linh hoạt, nhanh chóng đáp ứng được thời cơ mà phải tuân thủ đúng quy định, khuôn khổ để đảm bảo không làm sai. Đây chính là thách thức của các doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình chuyển đổi số.
Chuyển đổi số phải có sự hình dung tổng thể. Tuy nhiên các doanh nghiệp Nhà nước đang bị ràng buộc trong các chỉ tiêu vừa tổng thể, vừa cụ thể, thậm chí kể cả những chỉ tiêu theo Nghị quyết. Do kết quả luôn phải đáp ứng theo những tiêu chí này nên đây cũng trở thành một loại rào cản.
Với quy mô lớn, mô hình phức tạp và định hướng phát triển theo sự chỉ đạo, việc hoạch định để giải các điểm nghẽn, xây dựng mô hình kiến trúc và tìm lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp Nhà nước thực sự là một vấn đề.
Viện trưởng Viện Chiến lược Chuyển đổi số cho rằng, cần phải cởi được các nút thắt và điểm nghẽn về mặt thể chế để tạo không gian chuyển đổi số cho doanh nghiệp Nhà nước.
“Muốn động thì tĩnh. Nếu những cái “tĩnh” như hành lang pháp lý, con người, thể chế được vận dụng một cách hiệu quả thì các doanh nghiệp Nhà nước có thể vận động rất nhanh”, ông Nguyễn Trường Giang khẳng định.
Giải bài toán chuyển đổi số doanh nghiệp Nhà nước
Theo ông Bùi Trung Thành, Giám đốc tư vấn chuyển đổi số khu vực miền Bắc Base Enterprise, 92% doanh nghiệp Việt có nhu cầu chuyển đổi số, nhưng 90% lại chưa hiểu về chuyển đổi số và 78% các doanh nghiệp không biết bắt đầu từ đâu.
Trong quá trình tư vấn chuyển đổi số cho các doanh nghiệp Nhà nước, Base nhận thấy nhiều doanh nghiệp chưa có hệ thống quy trình mà chỉ đơn thuần làm việc theo thói quen. Doanh nghiệp Nhà nước thường hay sử dụng văn bản, giấy tờ, không chỉ lãng phí tài nguyên, điều này còn làm cản trở tốc độ vận hành doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp đã cải tổ nhưng họ đơn thuần chỉ dùng các nhóm chat, nhóm Zalo để phục vụ cho quá trình quản trị doanh nghiệp. Đây thực chất chính là những “nỗi đau” và bài toán cần giải trong quá trình chuyển đổi số các doanh nghiệp Nhà nước.
Trao đổi với PV VietNamNet, ông Nguyễn Đức Kiên, Phó Tổng giám đốc Công ty CNTT VNPT cho biết, qua khảo sát của VCCI, đa phần khó khăn của các doanh nghiệp khi tiến hành chuyển đổi số là về mặt chi phí tiếp cận công nghệ. Đối với các doanh nghiệp, tập đoàn lớn có tính chất đặc thù, việc chuyển đổi số cả hệ thống sản xuất có rào cản rất lớn về mặt kinh phí.
Theo Phó Tổng giám đốc Công ty CNTT VNPT, nhiều doanh nghiệp Nhà nước có tiền, sẵn sàng chuyển đổi số nhưng lại gặp phải một vấn đề khác là chưa biết bắt đầu từ đâu và chưa biết đi cùng ai. Với những tập đoàn, tổng công ty có hoạt động sản xuất đặc thù, ví dụ như sản xuất xi măng, để chuyển đổi số, họ phải gặp những đơn vị chuyên biệt trong lĩnh vực đó.
Trong câu chuyện chuyển đổi số doanh nghiệp Nhà nước, còn một vấn đề nữa là thay đổi thói quen. Nhận thức về chuyển đổi số hiện đã hình thành, tuy nhiên khó thay đổi hơn là thói quen của con người. Với những quy trình, công cụ mới, sau một thời gian vận hành, nhiều người lao động cảm thấy khó quá và có xu hướng “lách”, bỏ đi.
Chia sẻ về kinh nghiệm chuyển đổi số của chính doanh nghiệp mình, đại diện VNPT cho hay, do được tiếp cận khá sớm với CNTT, trong giai đoạn đầu, VNPT có rất nhiều hệ thống CNTT. Việc kết nối các hệ thống đó lại với nhau ở 63 tỉnh thành là một trở ngại lớn.
“Hệ thống CNTT nào cũng sẽ có những lỗi phát sinh, rồi cả việc thay đổi thói quen, công cụ lao động,... Đó là những gì chúng tôi đã trải qua. Bất kể doanh nghiệp nào có sự tương đồng với chúng tôi cũng sẽ phải trải qua câu chuyện này”, ông Kiên chia sẻ.
Ông Đoàn Hữu Hậu, Giám đốc Tư vấn Chuyển đổi số FPT Digital cho rằng, để giải bài toán chuyển đổi số doanh nghiệp Nhà nước, điều quan trọng nhất là phải chuyển đổi về tư duy, định hướng của doanh nghiệp. Cụ thể là phải đổi từ tư duy có gì bán nấy sang phục vụ theo nhu cầu của khách hàng.
Theo ông Hậu, những người đứng đầu các doanh nghiệp Nhà nước phải trực tiếp tham gia vào quá trình chuyển đổi, thúc đẩy việc thay đổi quy trình hoạt động sang phương thức mới nhằm tăng năng suất.
Đồng thời, lãnh đạo của nhóm doanh nghiệp này cần sẵn sàng cởi mở để học thêm các ý tưởng mới, công nghệ mới, tinh giản các bước thực hiện và áp dụng công nghệ, từ đó dùng công nghệ để phát triển các sản phẩm dịch vụ mới. Còn một điều quan trọng khác, đó là các doanh nghiệp phải lắng nghe phản hồi để qua đó cải thiện trải nghiệm khách hàng.