Tính theo suất đầu tư kể trên, một dự án sẽ thu hồi vốn đầu tư trong vòng 7 năm trong điều kiện được phát hết công suất. 13 năm còn lại được coi là phần lợi nhuận thu được. Thông thường, các nhà đầu tư vay phần lớn vốn ngân hàng, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm phần nhỏ nên đây có thể coi là mức sinh lời hấp dẫn.
Thế nhưng, đó chỉ là con số lý tưởng. Việc phải chịu cắt giảm công suất đã khiến số lợi thu về giảm đi đáng kể so với tính toán kể trên.
Sau 30/6/2019, giá FIT đã giảm từ 9,35 cent/kWh xuống chỉ còn 7,09 cent/kWh, tương đương 1.680 đồng/kWh (đối với các dự án điện mặt trời mặt đất), theo Quyết định 13/2020/QĐ-TTg có hiệu lực ngày 22/5/2020. Mức giá này vẫn thu hút được lượng lớn nhà đầu tư do chi phí đầu tư điện mặt trời khi đó đã giảm so với giai đoạn trước vì Trung Quốc bán sang với giá rẻ.
Đó cũng là lý do khiến nhiều dự án điện mặt trời ngay sau khi hoàn thành đã được các nhà đầu tư nước ngoài mua lại. Bởi căn cứ theo phương án tài chính thì việc mua lại các dự án này đảm bảo cho các nhà đầu tư có được khoản lợi nhuận ổn định trong thời gian gần 20 năm còn lại. Rủi ro đầu tư gần như là rất thấp.
Còn với điện gió, sau khi có Quyết định 39 của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 10/9/2018, lĩnh vực này cũng bắt đầu thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư. Mức giá FIT cho điện gió là 8,5cent/kWh, tương đương 2.000 đồng/kWh theo tỷ giá hiện nay.
Nhờ đó, tính đến hết năm 2021, công suất lắp đặt điện gió đã đạt 4.126 MW.
Chưa có giá mới, nhà đầu tư vẫn ngóng được đầu tư vào điện tái tạo
Nhìn vào những số liệu trên, có thể thấy, từ 2017 đến nay, điện mặt trời và điện gió đã trở thành mối quan tâm lớn của các nhà đầu tư. Sản lượng điện tái tạo chiếm 13,2%, đã đóng góp đáng kể cho hệ thống điện, nhất là khi đây lại là nguồn lực thu hút được từ khu vực tư nhân, giúp EVN bớt đi gánh nặng tài chính cho đầu tư nguồn điện. Đặc biệt, năm 2022, giá điện than tăng cao hơn giá của điện gió, mặt trời.
Sau khi giá FIT cho điện mặt trời, điện gió hết hạn vào 2020 và 2021, đến nay, cơ chế mới cho lĩnh vực này vẫn chưa được ban hành. Ngoài ra, quy hoạch điện VIII cũng chưa được phê duyệt. Nhưng các nhà đầu tư vẫn đang ngóng chờ và liên tục tìm các địa điểm mới để chuẩn bị đầu tư khi có chính sách mới.
Trong bối cảnh Việt Nam phải thực hiện cam kết phát thải ròng carbon bằng 0 vào năm 2050, điện tái tạo - vốn được coi là điện sạch - tiếp tục được ưu tiên.
Bộ Công Thương khẳng định những năm gần đây, năng lượng tái tạo phát triển mạnh, từng bước góp phần vào việc giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính và tăng tính chủ động trong việc cung cấp điện.
Tại dự thảo quy hoạch điện VIII ngày 13/10/2022, Bộ Công Thương đề xuất tiếp tục đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió, mặt trời mái nhà... với giá thành hợp lý gắn với bảo đảm an toàn vận hành và tính kinh tế chung của hệ thống điện. Quy hoạch điện VIII xác định ưu tiên phát triển mạnh điện gió trên bờ và điện gió ngoài khơi.
Tại tờ trình ngày 23/9/2022 dự kiến năm 2030, tổng công suất điện gió trên bờ lên đến 16.281MW, điện gió ngoài khơi là 7.000MW. Đến tờ trình ngày 13/10/2022, Bộ Công Thương dự kiến điện gió trên bờ tăng thêm 4.659MW.
Theo dự thảo quy hoạch điện VIII, tỷ lệ công suất lắp đặt các nguồn năng lượng tái tạo cũng tăng từ 21,6% năm 2030 lên đến 54,4% năm 2050. Tỷ trọng điện năng sản xuất từ các nguồn này tăng từ 14,5% năm 2030 lên 49% năm 2050.
Điều đó cho thấy, dư địa để thu hút đầu tư vào lĩnh vực này còn rất lớn. Việc chấm dứt áp dụng giá FIT, chuyển sang hình thức đấu thầu sẽ giúp cho các nguồn điện gió, mặt trời có giá cạnh tranh hơn.
Phát biểu tại hội thảo, Giám đốc Sở Công Thương TP Cần Thơ Hà Vũ Sơn nhấn mạnh, logistics xanh đã trở thành xu thế tất yếu, và là mục tiêu mà mọi quốc gia đang hướng tới.
Ông Sơn khẳng định, logistics xanh không chỉ góp phần bảo vệ môi trường, giảm thiểu tác động tiêu cực của hoạt động vận tải, kho bãi, mà còn mang lại lợi ích kinh tế lâu dài, nâng cao hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp.
Ứng dụng logistics xanh vào kinh doanh sẽ giúp các doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí về môi trường, nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng trưởng bền vững, đóng góp quan trọng cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Đặc biệt, với các doanh nghiệp tại khu vực ĐBSCL, theo số liệu thống kê, chi phí cho hoạt động logistics chiếm khoảng 16,8%, đóng góp 5-6% GDP thì nhận thức đúng vai trò của logistics xanh sẽ có ý nghĩa rất lớn tới quá trình nâng cao năng lực cho hàng hóa xuất khẩu.
Ông Hà Vũ Sơn nói thêm, tổng kim ngạch xuất khẩu của ĐBSCL là khoảng 68 tỷ USD, trong đó Cần Thơ đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu.
Hàng năm, Cần Thơ xuất khẩu 2,2 tỷ USD, trong đó 30% là doanh thu từ xuất khẩu gạo. Sắp tới thành phố sẽ mở rộng sân bay thành sân bay quốc tế lớn với 10-15 triệu lượt hành khách/năm và hơn 10 triệu tấn hàng hóa/năm.
“Từ những cơ hội đó, các giải pháp về logistics xanh sẽ góp phần tận dụng tối đa, hiệu quả để phát triển kinh tế của vùng ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung”, lời ông Hà Vũ Sơn.
Dưới góc nhìn một nhà quản lý có nhiều kinh nghiệm trong ngành, ông Đỗ Xuân Quang, Phó Tổng Giám đốc thường trực Công ty cổ phần hàng không Vietjet cho biết, logistics là ngành chiếm gần 20% GDP quốc gia, và nó được xem như chiếc đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế.
Trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới theo hướng xanh, sạch và bền vững thì logistics xanh không chỉ còn là xu hướng mà trở thành yêu cầu tất yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hình ảnh thương hiệu nhằm hướng tới phát triển bền vững và toàn diện hơn trong hoạt động kinh doanh, thương mại của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng và cộng đồng doanh nghiệp nói chung.
Theo ông Đỗ Xuân Quang, để thúc đẩy quá trình phát triển bền vững một cách toàn diện, hiệu quả và nhanh chóng trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số trong kinh tế, xã hội, quản trị, môi trường (ESG) là điều tất yếu.
Ông Quang gọi ý, nếu các doanh nghiệp Việt chú trọng đầu tư vào mục tiêu này thì sẽ mở ra nhiều cơ hội ở thị trường thế giới với hàng hóa xuất khẩu, tăng khả năng kêu gọi đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia hay đa dạng sự tài trợ từ các nguồn tài chính quốc tế.
"Đối với nước ta, logistics xanh bên cạnh gắn liền với mục tiêu phát thải ròng về 0% (net zero) mà Việt Nam đã cam kết tại COP 26, mà còn là tiền đề, điều kiện quan trọng để đưa hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vươn ra nhiều thị trường quốc tế để từ đó nâng cao thương hiệu, vị thế hàng hóa Việt ở thị trường thế giới",ông Quang nói.
Vẫn theo ông Quang, để thực hiện được mục tiêu logistics xanh, cần tập trung quản lý chuỗi cung ứng xanh và gắn liền với quản trị các mắt xích của nó như: vận tải xanh, bao bì xanh, kho bãi xanh, quản lý dữ liệu xanh và logistics ngược.
Đóng góp cho sự phát triển của ngành logistics, ông Đỗ Xuân Quang nhấn mạnh: “Chính phủ đã có các chính sách khuyến khích chuyển đổi xanh, qua các chương trình quốc gia về tăng trưởng xanh thì để thúc đẩy việc chuyển đổi xanh, logistics.
Tuy nhiên, theo tôi bên cạnh các chính sách vĩ mô về cơ chế và kinh tế của Chính phủ, việc đầu tiên cần làm là thay đổi nhận thức của những người làm logistics và cộng đồng doanh nghiệp về vai trò, lợi ích và ý nghĩa của Logistics Xanh tới sự phát triển của cá nhân, doanh nghiệp và xã hội như thế nào.
Cần có nhận thức đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, từ Trung ương đến địa phương, giữa các hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ xúc tiến cho đến các doanh nghiệp và chủ hàng… để những giải pháp Logistics đều hướng tới mục tiêu logistics xanh, phát triển bền vững”.