“Người thầy chính là mẹ”
10 năm trước, trong ngày bảo vệ luận văn thạc sĩ, chị Hà nhận được tin mẹ ốm. Nghĩ giống như mọi lần, chị dự định hoàn thành buổi bảo vệ rồi sẽ trở về nhà ngay.
Nhưng khi buổi bảo vệ sắp bắt đầu, chị nhận được cuộc điện thoại từ người bạn thân. Đầu dây bên kia hỏi về tin dữ. Nóng ruột, chị vội gọi điện về nhà. Người bố ngập ngừng báo tin mẹ đã mất. Bỏ dở buổi bảo vệ, chị lập tức bắt xe về nhà.
“Khi ấy, mẹ cũng đã nhập quan. Tôi chẳng thể nhìn mặt mẹ lần cuối cùng”.
Khoảnh khắc ấy luôn khiến chị cảm thấy day dứt. Vì vậy về sau, dù có cơ hội được học tập ở nước ngoài, chị vẫn quyết định chọn ở lại Việt Nam.
“Tôi sợ rằng sau này, có những lúc người thân khó khăn nhất, mình lại chẳng thể ở bên. Hơn nữa, điều kiện học tập trong nước cũng khá thuận lợi”, chị nói.
Sau buổi bảo vệ lỡ dở, chị được nhà trường sắp xếp cho bảo vệ vào một tuần sau đó. Kết quả, chị đạt được điểm tối đa từ phía hội đồng.
“Đó có lẽ là điều duy nhất mà tôi còn có thể làm cho mẹ khi mẹ đã ra đi”.
Chị Nguyễn Thị Thanh Hà (sinh năm 1986, quê Phú Thọ), nữ giảng viên của Viện Vật lý Kỹ thuật, ĐH Bách khoa Hà Nội.
Với chị Hà, mẹ vẫn là người có ảnh hưởng nhất tới mình.
“Mẹ tôi là giáo viên dạy Văn cấp 2. Có lẽ vì thế, bà khá nghiêm khắc trong việc dạy con cái. Từ nhỏ, bà đã dạy con phải viết chữ thật chỉn chu lên bảng. Mọi người thường bảo, chữ đẹp thế này, sau làm giáo viên cũng được. Có lẽ đó là một lời động viên con nít, nhưng tôi đã rất vui”.
Sau này, khi lên cấp 2, Hà cũng được học các giờ Văn của mẹ. Là con giáo viên, cô luôn phải nỗ lực nhiều hơn các bạn. Thậm chí, trong tiết học của mẹ, Hà càng phải nghiêm túc hơn.
“Mẹ tôi không bao giờ có bất kỳ sự ưu ái nào cho con, thậm chí sẵn sàng cho điểm thấp nếu tôi không cố gắng.
Ngoài giờ tới trường, tôi cũng không bao giờ được đi chơi tối. Nếu có buổi sinh nhật với bạn bè, tôi đều phải về trước 9 giờ”.
Dù vậy, chị vẫn biết ơn bà vì sự nghiêm khắc này. “Những điều đó đã rèn cho tôi sự nề nếp, chỉn chu và kỷ luật. Sau này tôi mới thấy, điều đó thật cần thiết cho con đường làm nghiên cứu khoa học”.
Trở thành nữ phó giáo sư trẻ nhất Việt Nam năm 2020
Năm 2004, Thanh Hà thi đỗ vào ngành Sư phạm Vật lý, khoa Sư phạm (nay là Trường ĐH Giáo dục), ĐH Quốc gia Hà Nội.
4 năm sau, chị ra trường, chuyển tiếp lên học bậc Thạc sĩ rồi về công tác tại Viện Vật lý Kỹ thuật, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội.
“Mọi thứ diễn ra trôi chảy giống như một cái duyên. Tôi đã gặp được những người thầy tốt và được chỉ lối, dẫn đường”.
Chị Hà cùng bố và anh trai trong buổi bảo vệ luận án tiến sĩ
Năm đầu đi dạy, nữ giảng viên trẻ bất ngờ khi có những học trò hơn mình tới 2 tuổi.
“Dù vậy, tôi luôn quan niệm không phải mình đang đi dạy mà là đang chia sẻ những thứ mình có. Sinh viên Bách khoa rất giỏi và thông minh; cùng dạy và học sẽ giúp tôi dần hoàn thiện bản thân hơn”.
Trước khi bắt đầu môn học, chị cũng đưa ra các thang điểm, tiêu chí đánh giá rõ ràng, không có bất kỳ sự phân biệt hay ưu ái nào.
“Tôi luôn muốn sinh viên được đối xử công bằng. Ba-rem điểm đã có sẵn, nếu đạt được yêu cầu và thấy xứng đáng, tôi sẵn sàng cho điểm 10”, nữ giảng viên Bách khoa nói.
Ngoài giảng dạy, chị Hà dành phần nhiều thời gian cho việc nghiên cứu. Đến nay, nữ giảng viên trẻ đã công bố 28 bài báo khoa học, trong đó có 16 bài được đăng trên tạp chí quốc tế ISI.
Hướng nghiên cứu của chị chủ yếu mô phỏng các tính chất của vật liệu dựa trên cơ sở các cấu trúc nguyên tử. Đối tượng nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các vật liệu oxit và oxit nhiều thành phần. Đây là các loại vật liệu có rất nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực công nghệ cao như gạch chịu lửa, vật liệu sinh học, xử lý chất thải hạt nhân,...
Các kết quả được công bố trên một số tạp chí như: European physical Journal, Journal of Non-Crystalline Solids; Materials Chemistry and Physics…
![]() |
Thi thoảng, chị Hà cũng cùng bạn bè đi đâu đó để hưởng thụ cuộc sống độc thân.
Chị cho rằng, bản thân đến với khoa học là một cơ duyên và sự may mắn. Trên suốt chặng đường nghiên cứu, chị luôn được đồng hành cũng những người thầy, đồng nghiệp có chuyên môn và có cùng niềm đam mê với nghiên cứu khoa học. Gia đình cũng là một nguồn động lực để chị có thể yên tâm với công việc mà mình đã lựa chọn.
“Không có đề tài nghiên cứu nào chỉ do một người làm cả. Các nghiên cứu của tôi luôn có sự đồng hành của tập thể. Và tôi luôn cảm thấy bản thân rất may mắn vì điều đó”.
Với những nỗ lực ấy, vừa qua, nữ giảng viên Trường ĐH Bách khoa Hà Nội đã được công nhận đạt chuẩn phó giáo sư. Chị Hà đồng thời cũng là nữ phó giáo sư trẻ nhất Việt Nam năm 2020.
Nhận được tin vui, người đầu tiên chị Hà nhớ tới là mẹ. “Trước đây, ngày tôi đỗ đại học, mẹ là người vui nhất. Nhưng ngày tôi đạt được những điều mẹ vẫn mơ ước thì mẹ không còn nữa. Tôi luôn biết ơn những người thầy tốt mà tôi đã gặp trong đời, trong đó, người thầy đầu tiên là mẹ”.
Thúy Nga
Theo danh sách công bố của Hội đồng GS Nhà nước, ứng viên trẻ nhất đạt chuẩn giáo sư năm 2020 là TS. Lê Anh Vinh, 37 tuổi. Ông Vinh là Tiến sĩ ĐH Harvard và hiện là người phụ trách Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
" alt=""/>Cú sốc trong ngày bảo vệ thạc sĩ của nữ Phó Giáo sư trẻ nhất Việt NamHội thảo do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số cơ sở giáo dục đại học tổ chức vào sáng nay 27/11.
Đại diện WB đã chỉ ra những thành tựu chính của giáo dục đại học Việt Nam, gồm: Thay đổi tích cực đối với sự quản trị đại học hiện đại; Luật Giáo dục Đại học (2018) và các cải cách về quyền tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP năm 2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập năm 2014-2017; Tuyển sinh tăng gấp đôi kể từ năm 2000 (trên 50% là nữ); Tỷ lệ phần trăm giảng viên đại học có bằng thạc sĩ/tiến sĩ hiện nay đạt trên 75%; Phát triển chương trình đào tạo và được quốc tế công nhận; Số lượng công bố quốc tế trong nghiên cứu khoa học tăng gấp 3 lần.
Ngoài ra, các trường đại học Việt Nam đã xuất hiện trong các bảng xếp hạng đại học uy tín trên thế giới.
Khi đánh giá về những thách thức, WB vẫn cho rằng Việt Nam đã làm rất tốt trong lĩnh vực giáo dục cơ bản, giáo dục phổ thông, tuy nhiên cần chú trọng nâng cao chất lượng Giáo dục đại học.
Bên cạnh đó, mức độ tiếp cận giáo dục đại học còn thấp; tỷ lệ tuyển sinh theo nhóm quỹ phúc lợi không đồng đều, thậm chí chênh lệnh lớn; chất lượng giáo dục còn chênh lệch giữa các nhóm kỹ năng của người học và sự chuyển giao các nghiên cứu và công nghệ diễn ra ở mức thấp.
![]() |
![]() |
Tỷ lệ tuyển sinh theo nhóm quỹ phúc lợi không đồng đều, thậm chí chênh lệnh lớn. |
![]() |
Chất lượng giáo dục còn chênh lệch giữa các nhóm kỹ năng của người học và sự chuyển giao các nghiên cứu và công nghệ diễn ra ở mức thấp. |
Tài chính phụ thuộc vào học phí
Những thách thức mang tính hệ thống trong việc quản lý giáo dục bậc cao ở Việt Nam, cũng được WB chỉ ra gồm: bị chia thành nhiều cơ sở giáo dục đào tạo với quy mô khác nhau; các lỗ hổng trong chính sách và cam kết thực hiện; sự liên kết giữa các trường đại học (cơ sở đào tạo) với thị trường lao động còn hạn chế; những đổi mới giáo dục còn hạn chế, bao gồm cả việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông; thiếu những người có đủ năng lực và chuyên môn để quản lý.
Những thách thức còn nằm ở việc huy động nguồn lực trong tài trợ cho giáo dục đại học khi thực tế nhiều trường phụ thuộc cao vào mức học phí không bền vững.
Theo WB, Việt Nam phân bổ nguồn lực công hơn 5% GDP cho giáo dục, tuy nhiên trong đó, mức đầu tư cho giáo dục đại học của Việt Nam hiện rất thấp, chỉ chiếm 0,33% (trong tổng số 6.1% Chính phủ đầu tư cho giáo dục và đào tạo). Trong khi đó, ở các nước, tỷ lệ này cao hơn nhiều.
![]() |
Tổng quan mức đầu tư cho giáo dục đại học của Việt Nam và một số nước trên thế giới. |
Một số thách thức khi phân bổ nguồn lực trong tài chính giáo dục đại học cũng được WB chỉ ra như:
Về kinh phí, việc phân bổ các quỹ công còn hạn chế, dựa trên các định mức truyền thống, không dựa trên kết quả hoạt động hoặc vốn chủ sở hữu.
Hoạt động nghiên cứu của trường đại học nhìn chung còn ít tài trợ, quản lý lỏng lẻo, chất lượng hợp tác còn hạn chế.
Các thủ tục chuẩn bị và giải ngân vốn đầu tư phức tạp, chưa đủ thu hút tài trợ ở cả khu vực công lẫn thị trường tín dụng tư nhân.
Học bổng và các khoản vay dành cho sinh viên thấp, điều khoản vay – trả chưa đủ hấp dẫn.
Từ đó, WB cũng đề xuất các lựa chọn chính sách để hiện đại hóa quản trị như:
Phê duyệt và tài trợ đầy đủ Chiến lược Phát triển giáo dục đại học chuyển đổi trong giai đoạn 2021 - 2030, WB đề xuất tăng ngân sách công cho giáo dục đại học từ 0,23% hiện tại lên 0,8% GDP trước năm 2030.
Đầu tư, nâng cao năng lực cho hoạch định chính sách; thiết kế chương trình; giám sát và đánh giá; Cập nhật các chính sách về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của giáo dục đại học với nguồn tài trợ của nhà nước;
Trao quyền cho các hội đồng trường để bổ nhiệm lãnh đạo và phê duyệt các chiến lược/ngân sách; Khuyến khích giáo dục đại học đổi mới, cải cách hành chính, bao gồm: quản lý nhân sự/giảng viên, hợp tác quốc tế về nghiên cứu & phát triển.
Theo Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Hoàng Minh Sơn, nguồn chi của ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học giảm mạnh trong thời gian qua, chỉ ở mức 0,23% GDP. Trong khi đó, nguồn thu từ nghiên cứu và các nguồn khác thấp. Vì vậy, tài chính của các trường đại học chủ yếu phụ thuộc vào học phí (phần lớn trường học phí chiếm trên 80%) nên đang thiếu bền vững. |
Thanh Hùng - Nguyệt Linh
Các rào cản, khoảng cách giữa quy định chính sách đến thực tiễn thi hành tự chủ đại học sẽ được mổ xẻ tại hội thảo Giáo dục 2020 với chủ đề “Tự chủ đại học - Từ chính sách đến thực tiễn”.
" alt=""/>WB: Nguồn lực cho giáo dục đại học ở Việt Nam còn thấpU22 Việt Nam: Nợ Văn Toàn lời cảm ơn" alt=""/>Tin thể thao 19