Sự cố Cambridge Analytica là minh chứng cho việc có tồn tại hay không “sự minh bạch” của Faceboook
Đây không phải là mối lo ngại riêng của chị Yến, bởi ngay tuần trước, CEO Facebook vừa tiếp tục đề xuất chính sách mới, cho phép những gã khổng lồ công nghệ sử dụng báo cáo dữ liệu để xóa các bài đăng vi phạm. Tuy nhiên các chuyên gia trong ngành không lạc quan về điều này, bởi đây chỉ là động thái nhằm hiện thực hóa việc tự giám sát nội dung trên các nền tảng mạng. Trên thực tế, Facebook vốn duy trì một hệ thống tương tự nhưng không mang lại hiệu quả.
Thứ Năm tuần trước, Mark Zuckerberg nói với Quốc hội: “Sự minh bạch sẽ giúp các công ty công nghệ lớn chịu trách nhiệm về những bài đăng đã bị xóa”. Nếu một hệ thống minh bạch như vậy trở thành tiêu chuẩn, người hưởng lợi đầu tiên sẽ là Facebook. Trước đó, Mark Zuckerberg từng nhiều lần khẳng định, Facebook luôn dẫn đầu về tính minh bạch trên nền tảng.
Các mạng xã hội như Facebook là cái nôi phát tán tin giả
Ông chủ Facebook cũng đã đưa ra nhiều sáng kiến tương tự, kêu gọi các nền tảng mạng xã hội có trách nhiệm hơn đối với nội dung do người dùng đăng tải. Trong những năm qua, các mạng xã hội, trong đó có Facebook, được cho là cái nôi phát tán tin giả và thông tin sai lệch (chẳng hạn như phát ngôn kích động, đe dọa bạo lực…). Chính vì vậy, các công ty công nghệ lớn là người đứng sau những nền tảng này luôn trở thành cái đích chỉ trích của dư luận.
Ảnh hưởng từ các chính sách của cựu Tổng thống Donald Trump, Quốc hội Mỹ vẫn đang tiếp tục thảo luận về nội dung cải cách Điều 230 của Đạo luật Quy chế Truyền thông, nhằm giải phóng các mạng xã hội khỏi trách nhiệm đối với nội dung do người dùng sáng tạo. Ngược lại, dư luận vẫn tiếp tục lên án các gã công nghệ lớn và những ông trùm truyền thông mạng xã hội, bởi tình trạng thông tin sai lệch vẫn chưa có biện pháp hạn chế triệt để.
Những người của phe phản đối liên kết cuộc bạo loạn tại Điện Capital hồi đầu năm với trách nhiệm của các mạng xã hội như Facebook, Twitter. Ngoài ra, các tin giả liên quan đến Covid-19 cũng vẫn tiếp tục được phát tán rộng khắp, gây hoang mang cho người dùng. Chính vì vậy, dư luận cho rằng đã lên lúc cần áp đặt những biện pháp mạnh đối với các nền tảng truyền thông xã hội để chấm dứt tình trạng này.
Tuy nhiên, phiên điều trần vào cuối tuần trước với nhóm Big Tech đã không cho phép Quốc hội Mỹ đạt được kế hoạch lập pháp về việc này, do đó tạo cơ hội cho Facebook tiếp tục phát huy sức ảnh hưởng. Nói về việc cải cách Điều 230 của Đạo luật Quy chế Truyền thông vừa được đề xuất, Jenny Lee, đối tác của hãng luật Arendt Fox, đại diện cho quyền lợi của các công ty công nghệ lớn đưa ra bình luận: “Các công ty công nghệ ít nhất cũng đã chừa lại chỗ trống để tiếp tục đàm phán”.
Có điều, nhiều nhà phân tích lại đổ dồn sự chú ý vào báo cáo tự kiểm của Facebook và cho rằng nó không minh bạch như những gì nền tảng này tuyên bố. Theo Facebook, hơn 97% nội dung bị đánh giá là ngôn từ kích động đã được hệ thống phát hiện trong tháng 2/2021 trước khi người dùng báo cáo. Quý 4 năm ngoái, mạng xã hội này cũng đã nhắm mục tiêu được 49% nội dung bạo lực. Sau khi triển khai các phương án như gắn cờ báo cáo, tỷ lệ bài viết tiêu cực này chỉ còn 26%.
Vấn đề là phương thức thống kê những số liệu này do AI của Facebook ghi lại, và thực tế đây không phải tổng lượng nội dung có hại. Ngoài ra, Facebook cũng không công bố thông tin về số lượng người đã tiếp cận những thông tin này trước khi chúng bị xóa hay khi nào chúng bị xóa. “Đây là báo cáo gây thất vọng”, một chuyên gia nhận định. Người này cho rằng việc Facebook không tiết lộ khoảng thời gian các thông tin độc hại bị xóa (trong vài phút hay vài ngày) là không minh bạch.
Facebook có thực sự minh bạch?
Trọng tâm của báo cáo này là trí tuệ nhân tạo, có nghĩa là Facebook đang tìm cách né trách nhiệm đối với việc giám sát các nội dung bị gắn cờ từ người dùng, cũng như không muốn công khai tỷ lệ kiểm duyệt và xóa bỏ những nội dung này.
Hiện tại, các nền tảng mạng xã hội, bao gồm Facebook, đang lệ thuộc vào hệ thống đánh giá nội dung của máy học, hệ thống này còn có nhiều sai sót nghiêm trọng trong quá trình ứng dụng thực tế. “Các hệ thống đánh giá tự động này ngày càng dễ qua mặt, thậm chí có thể xóa nhầm các nội dung không vi phạm hoặc bỏ qua cả những nội dung đã được người dùng gắn cờ báo cáo”.
Đầu năm nay, Ủy ban giám sát đã chỉ ra những sai sót trên hệ thống AI của Facebook. Ủy ban này là nhóm độc lập do Facebook thành lập để đánh giá về những nội dung gây tranh cãi trong nội bộ. Họ yêu cầu phải thông báo cho người dùng về các bài viết bị xóa bởi AI, đồng thời phải xem xét theo cách thủ công những kháng nghị của người dùng. Tuy nhiên, Facebook đã không chấp thuận những yêu cầu này.
Facebook có hơn 3 tỷ người dùng và chỉ có khoảng 15.000 nhân viên đánh giá nội dung. Trong thời kỳ dịch Covid-19 bùng phát, đa số nhân viên làm việc từ xa và vì lý do pháp lý, họ không thể theo dõi những nội dung nhạy cảm đã được báo cáo tại nhà. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực và những khiếm khuyết của AI đã mang đến những thách thức đặc biệt cho hoạt động đánh giá nội dung của Facebook.
Báo cáo minh bạch nội dung này của Facebook không có dữ liệu về ngôn ngữ hoặc vị trí địa lý của các bài đăng bị xóa. Nó cũng không đề cập bất cứ điều gì về thông tin sai lệch - và đây là một lĩnh vực quan trọng khác mà các nhà lập pháp quan tâm. Chính vì vậy, nhiều người đã đưa ra nhận xét: “Báo cáo minh bạch này của Facebook hầu như không có sự minh bạch”.
Thực tế, không chỉ với riêng bản báo cáo kiểm điểm nói trên, Facebook vẫn luôn mập mờ về tính minh bạch trong việc giám sát nội dung, giám sát người dùng và cả giám sát những chiến dịch quảng cáo của các doanh nghiệp. Trong khi đó, những nội dung kích động thù địch, tin giả và thông tin sai lệch là thứ cần phải xử lý thì Facebook luôn chần chừ không rõ vì lý do gì. “Tôi không tin vào sự minh bạch của Facebook, đó vốn chỉ là một trò khôi hài”, chị Yến khẳng định.
Điệp Lưu
Đại diện Facebook thừa nhận hệ thống kiểm duyệt nội dung quảng cáo của họ đã bị người dùng vượt mặt bằng một số thủ thuật.
" alt=""/>Luật của FacebookMức cước này được áp dụng đối với các thuê bao trả sau và có tổng số giây sử dụng trong tháng đến 1200 giây. Tiếp theo đó, mức cước sẽ chỉ còn 360 đồng/6 giây đầu tiên và 60 đồng/giây tiếp theo nếu số giây sử dụng cao hơn. Nếu là thuê bao trả trước và gọi tại quầy giao dịch, sẽ có mức cước là 500 đồng/6 giây đầu tiên và 60 đồng/giây tiếp theo. So với mức cước áp dụng hiện tại, cước gọi đi quốc tế từ 1/9 sẽ giảm từ 40% - 37,5% tùy phương thức gọi.
" alt=""/>VNPT giảm 40% cước dịch vụ điện thoại quốc tếTrong giai đoạn 1 (2012-2016) của đề án Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam, sau 4 năm thực hiện đề án, thuốc sản xuất trong nước đã đáp ứng được khoảng 50% cho công tác phòng, chữa bệnh với 520 hoạt chất trên tổng số 953 hoạt chất hiện đang lưu hành trên thị trường.
Tuy nhiên tỉ lệ sử dụng thuốc nội tại các BV tuyến tỉnh chỉ tăng 1,5% lên mức 35,4% so với trước khi triển khai đề án. Đặc biệt, tỉ lệ sử dụng thuốc nội tại BV tuyến trung ương rất thấp và có xu hướng giảm dần. Cụ thể, năm 2013, tỉ lệ này là 11,57%; năm 2014 là 11,31% và đến năm 2015 chỉ còn 10,02%.
Nhiều BV lớn sử dụng dưới 6% thuốc nội (năm 2015): Phụ sản TƯ (3,14%); BV K (3,3%); Bạch Mai (3,97%); Bệnh viện Việt Đức (5,87%); Tai mũi họng TƯ (5,63%)…
Bộ Y tế đánh giá, người dân nói chung và không ít thầy thuốc nói riêng vẫn còn có quen dùng thuốc ngoại đắt tiền để chữa bệnh trong khi hiệu quả so với thuốc sản xuất tại Việt Nam là tương đương.
Chính những thói quen này gây tốn kém, lãng phí kinh phí cho chữa bệnh rất lớn, vì thuốc nhập ngoại thường có giá thành đắt hơn nhiều trong khi đó thuốc sản xuất tại Việt Nam thì được sử dụng rất thấp.
![]() |
Bên trong một nhà máy thuốc đạt tiêu chuẩn GMP tại Việt Nam |
Theo mục tiêu của Bộ Y tế, đến năm 2020, tỉ lệ sử dụng thuốc Việt trong các BV tuyến TƯ đạt 22%, trừ một số bệnh viện chuyên khoa; 50% ở bệnh viện tuyến tỉnh (tăng 2% - 4%/năm) và 75% ở bệnh viện tuyến huyện.
Mục tiêu chung, thuốc sản xuất trong nước sẽ đáp ứng 70% nhu cầu điều trị và giá trị thuốc Việt Nam xuất khẩu mỗi năm tăng từ 5 - 10% so với năm trước.
Bộ Y tế cho rằng, khi nhận thức đúng về chất lượng, hiệu quả thuốc sản xuất tại Việt Nam và năng lực sản xuất của các doanh nghiệp dược tại Việt Nam qua đó sẽ làm thay đổi thói quen sử dụng thuốc ngoại bằng thuốc sản xuất trong nước. Điều này cũng góp phần giảm gánh nặng chi phí điều trị cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp dược Việt Nam.
4 nhóm giải pháp cơ bản
Để thực hiện mục tiêu nói trên, trong 3 năm qua, ngành y tế đã đề ra 4 nhóm giải pháp cơ bản: Giải pháp về cơ chế chính sách; Giải pháp đối với cơ sở y tế và thầy thuốc; Giải pháp đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc và giải pháp về truyền thông.
Về cơ chế chính sách, Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ/Ngành liên quan trình Quốc Hội/Chính phủ ban hành các văn bản quy định theo hướng ưu tiên thuốc sản xuất trong nước như Luật Dược sửa đổi 2016, Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, Luật đấu thầu, Chiến lược Quốc gia về phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030...
Đặc biệt, để ưu tiên trong đấu thầu thuốc tại các cơ sở khám chữa bệnh công lập, Bộ Y tế đã ban hành Danh mục 640 thuốc sản xuất trong nước đáp ứng yêu cầu điều trị, giá thuốc và khả năng cung ứng, không mua thuốc nhập khẩu; thuốc sản xuất trong nước được phân nhóm để đấu thầu riêng, đồng thời được tham gia tất cả các nhóm đấu thầu khác khi đáp ứng các tiêu chí kỹ thuật.
Về phía cơ sở y tế, việc triển khai Đề án đã được lãnh đạo các tỉnh/thành, Sở Y tế chỉ đạo sát sao. Nhiều bệnh viện đã chỉ đạo xây dựng danh mục thuốc đấu thầu với chính sách ưu tiên thuốc sản xuất trong nước. Năm 2018 tỷ lệ giá trị sử dụng thuốc trong nước tuyến huyện đã tăng lên 76,62%, tuyến tỉnh tăng 57,03%, nếu tính cả tuyến huyện và tỉnh thì tăng 63,53%.
Ngành y tế cũng đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ y tế và người dân thông qua các buổi tọa đàm, tập huấn, phóng sự với chủ đề “Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam”...
Nhờ những giải pháp đồng bộ trên, tỉ lệ giá trị và số lượng thuốc sản xuất trong nước sử dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã tăng dần qua từng năm.
Đến năm 2018, theo báo cáo của các sở y tế, tỉ lệ trung bình giá trị thuốc sản xuất trong nước sử dụng tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh và tuyến huyện có sự tăng nhanh qua các năm, từ mức 46,62% năm 2013 tăng lên 63,53% năm 2018.
Riêng tuyến tỉnh, trong thời gian qua tỉ lệ dùng thuốc sản xuất trong nước đã tăng từ 34,1% (năm 2013) lên 57,0% (năm 2018), vượt mức mục tiêu đề ra năm 2020 là 50%; đối với tuyến huyện đạt 76,62% năm 2018 vượt mức mục tiêu đến năm 2020 là 75%.
Điển hình, một số tỉnh có tỉ lệ thuốc trong nước sử dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cao như: Phú Yên (87%), Quảng Bình (76,9%), Tuyên Quang (76,46%)…
Hiện Việt Nam cũng đã sản xuất được sản xuất được 12/13 loại vắc xin trong Chương trình tiêm chủng mở rộng.
Cũng theo thống kê, Việt Nam hiện có hơn 200 nhà máy sản xuất thuốc đạt tiêu chuẩn GMP của Tổ chức Y tế thế giới, 11 nhà máy đã đầu tư và đạt tiêu chuẩn của các nước tiên tiến như tiêu chuẩn của Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, PIC/S. Thuốc sản xuất trong nước đáp ứng đầy đủ 27 nhóm tác dụng dược lý theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới. Có 652 thuốc trong nước đã được công bố chứng minh tương đương sinh học so với thuốc biệt dược gốc, thuốc phát minh.
(Nguồn Cục Quản lý Dược)
" alt=""/>4 giải pháp thúc đẩy người Việt dùng thuốc Việt