TIN BÀI KHÁC:
Thư cuối gửi người cũ" alt=""/>Yêu bốn năm, gia đình ép chia tay vì bạn gái tuổi DầnThư viện Anh, Vương quốc Anh - 170-200 triệu mục: Thư viện Anh là thư viện quốc gia của Vương quốc Anh và là một trong những thư viện lớn nhất thế giới. Được thành lập vào năm 1973, bộ sưu tập của thư viện bao gồm bản thảo, sách, tạp chí, báo, bản ghi âm và bằng sáng chế. Bộ sưu tập đồ sộ của thư viện trải dài qua nhiều thế kỷ và chứa các tác phẩm từ khắp nơi trên thế giới. Thư viện cũng lưu giữ Đại Hiến chương Magna Carta nổi tiếng, sổ tay của Leonardo da Vinci và bản sao cổ nhất được biết đến của sử thi Anglo-Saxon - Beowulf. Với hàng triệu mục được bổ sung hàng năm, thư viện đóng vai trò là trung tâm nghiên cứu quan trọng cho các học giả trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ảnh: Britannica.
![]() |
Thư viện Quốc hội, Mỹ - 175 triệu mục:Được thành lập vào năm 1800, Thư viện Quốc hội trên thực tế là thư viện quốc gia của Mỹ và là thư viện lớn nhất thế giới về cả quy mô và số lượng đầu sách. Tọa lạc tại Washington, D.C., nơi đây lưu giữ một bộ sưu tập đồ sộ bao gồm sách, bản đồ, nhạc, phim và các bản thảo quý hiếm. Nơi đây cũng tự hào có bộ sưu tập hơn 38 triệu cuốn sách bằng hơn 450 ngôn ngữ, trở thành nguồn tài nguyên nghiên cứu toàn cầu. Những tài sản đáng chú ý bao gồm thư viện cá nhân của Thomas Jefferson và Kinh thánh Gutenberg. Ảnh: Viator. |
![]() |
Thư viện Thượng Hải, Trung Quốc - 57 triệu mục: Thư viện Thượng Hải là một trong những thư viện công cộng lớn nhất Trung Quốc và lớn thứ hai thế giới về số lượng. Được thành lập vào năm 1952, thư viện vừa là thư viện công cộng vừa là viện nghiên cứu. Bộ sưu tập của thư viện bao gồm sách, tạp chí, tài liệu lịch sử, bản thảo quý hiếm và bằng sáng chế. Thư viện cũng có bộ sưu tập phả hệ Trung Quốc toàn diện, khiến nơi đây trở thành nguồn tài nguyên vô giá cho những người nghiên cứu văn hóa và lịch sử Trung Quốc. Ảnh: Widewalls. |
![]() |
Thư viện công cộng New York, Mỹ - 55 triệu mục:Được thành lập vào năm 1895, Thư viện công cộng New York (NYPL) là một trong những thư viện mang tính biểu tượng nhất thế giới, nổi tiếng với kiến trúc đồ sộ và nguồn tài nguyên khổng lồ. Tọa lạc tại Manhattan, thư viện phục vụ hàng triệu du khách mỗi năm thông qua 4 trung tâm nghiên cứu và hơn 90 thư viện chi nhánh. Thư viện đặc biệt nổi tiếng với bộ sưu tập sách quý hiếm, bản thảo và tài nguyên đa phương tiện. Một số đầu sách đáng chú ý bao gồm các bản thảo viết tay gốc của các tác giả vĩ đại và Kinh thánh Gutenberg. Ảnh: Amirhodorov. |
![]() |
Thư viện và Lưu trữ Canada - 54 triệu mục:Là thư viện quốc gia và tổ chức lưu trữ của Canada, Thư viện và Lưu trữ Canada bảo tồn di sản phong phú của đất nước. Được thành lập vào năm 2004, thư viện này kết hợp các chức năng của cả thư viện quốc gia và lưu trữ, lưu giữ hàng triệu cuốn sách, ảnh, hồ sơ lịch sử, bản đồ và tài nguyên phả hệ. Bộ sưu tập đồ sộ này phản ánh nền văn hóa và lịch sử đa dạng của Canada, khiến nó trở nên thiết yếu đối với các nhà nghiên cứu và sử gia tập trung vào lịch sử Canada. Ảnh: Globalnews. |
![]() |
Thư viện Nhà nước Nga - 481 triệu mục: Nằm tại Moscow, Thư viện Nhà nước Nga là thư viện lớn nhất ở Nga và là một trong những thư viện lớn nhất thế giới. Được thành lập vào năm 1862, thư viện lưu giữ một bộ sưu tập toàn diện gồm sách, tạp chí và bản thảo quý hiếm, đặc biệt có giá trị đối với những người nghiên cứu lịch sử và văn học Nga. Bộ sưu tập của thư viện bao gồm nhiều chủ đề, với các bản đồ, bản nhạc và tài nguyên kỹ thuật số. Nơi đây được biết đến là nơi lưu giữ một lượng lớn các tác phẩm lịch sử bằng tiếng Slavơ. Ảnh: Wordpress. |
![]() |
Thư viện Quốc hội, Nhật Bản - 44,1 triệu mục:Được thành lập vào năm 1948, Thư viện Quốc hội Nhật Bản hoạt động như thư viện quốc gia của đất nước. Thư viện được thành lập để hỗ trợ các nhà lập pháp, nhưng sau đó đã phát triển thành một thư viện nghiên cứu lớn mở cửa cho công chúng. Bộ sưu tập của thư viện bao gồm sách, tạp chí, ấn phẩm của chính phủ, bản đồ và tài liệu nghe nhìn. Thư viện được biết đến với bộ sưu tập phong phú các tài liệu và tác phẩm lịch sử Nhật Bản, đóng vai trò là nguồn tài nguyên chính cho các học giả nghiên cứu văn hóa và luật pháp Nhật Bản. Ảnh: Timenownews. |
![]() |
Thư viện Quốc gia Đức - 43,7 triệu mục:Được thành lập vào năm 1912, Thư viện Quốc gia Đức là thư viện lưu trữ trung tâm của Đức và là thư viện lớn nhất cả nước. Thư viện lưu giữ bộ sưu tập toàn diện tất cả ấn phẩm tiếng Đức, bao gồm sách, tạp chí, báo và nhạc. Bộ sưu tập của thư viện bao gồm các nguồn tài nguyên kỹ thuật số và in ấn từ cả thời kỳ lịch sử và hiện đại, khiến nơi đây trở thành một tổ chức quan trọng đối với các nhà nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ học châu Âu. Ảnh: Cenl. |
![]() |
Thư viện Hoàng gia Đan Mạch - 42,5 triệu mục:Thư viện Hoàng gia Đan Mạch, được thành lập năm 1648, là thư viện quốc gia của Đan Mạch và là thư viện lớn nhất ở các nước Bắc Âu. Bộ sưu tập của thư viện bao gồm sách, bản thảo, ảnh và nhạc, bao gồm các mục độc đáo như bản thảo gốc thời trung cổ của Đan Mạch và giấy tờ cá nhân của các tác giả Đan Mạch nổi tiếng. Đây vừa là thư viện công cộng vừa là nơi nghiên cứu và có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn di sản văn hóa của Đan Mạch. Ảnh: Behance. |
![]() |
Thư viện Quốc gia Trung Quốc - 43,27 triệu mục:Thư viện Quốc gia Trung Quốc, tọa lạc tại Bắc Kinh, được thành lập vào năm 1909 và là một trong những thư viện quan trọng nhất ở châu Á. Thư viện lưu giữ một bộ sưu tập lớn về văn học Trung Quốc, hồ sơ lịch sử và các văn bản cổ quý hiếm, bao gồm kinh Phật. Đây là một tổ chức quan trọng trong việc bảo tồn di sản văn hóa và lịch sử Trung Quốc, trở thành nguồn tài nguyên thiết yếu cho các học giả nghiên cứu về Đông Á. Ảnh: Archjourney. |
Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức - Znews
Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức - Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.
Trân trọng.
" alt=""/>10 thư viện có bộ sưu tập sách lớn nhất thế giới![]() |
Friedrich Froebel (1782-1852) |
Ông chưa từng thể hiện sự quan tâm đặc biệt nào với trường học, ngoại trừ môn toán. Mặc dù trải qua một thời thơ ấu khó khăn, song ông vẫn có một niềm tin mãnh liệt vào Ki-tô giáo và nuôi dưỡng tình yêu dành cho thiên nhiên. Đây là những yếu tố được cho là trung tâm trong tư tưởng của ông khi trở thành một nhà giáo dục.
Là một triết gia về giáo dục, ông nổi tiếng nhất với việc khai sinh ra khái niệm “trường mầm non”.
Sinh năm 1782 ở một ngôi làng thuộc Oberwebach, Thuringia, Đức, tuổi thơ của ông là một giai đoạn đầy khó khăn do mẹ ông mất sớm, bị cha bỏ rơi. Froebel được một người bác nhận nuôi.
Sau khi tốt nghiệp đại học, ông nhận được một công việc ở khoa lâm nghiệp, ĐH Bamberg. Sau đó, ông giảng dạy ở Frankfurt. Niềm tin mạnh mẽ vào tôn giáo đã đưa ông đến với giáo dục.
Để chuẩn bị cho việc giảng dạy ở Frankfurt, hiệu trưởng trường đã sắp xếp cho Froebel – lúc ấy mới 24 tuổi – một khóa học ngắn với Johann Henrich Pestalozzi ở Yverdon. Froebel tin rằng quan điểm của Pestalozzi trong việc tôn trọng phẩm chất của những đứa trẻ và sự sáng tạo của môi trường học an toàn về mặt cảm xúc là những yếu tố giáo dục vô cùng quan trọng mà ông muốn kết hợp vào việc giảng dạy của mình.
Ông cũng bị mê hoặc bởi những bài học về số học, hình thái và tên tuổi của Pestalozzi – những thứ đã trở thành nền tảng cho việc thiết kế các giáo cụ mầm non sau này.
Từ năm 1810-1812, Froebel học ngôn ngữ và khoa học ở ĐH Göttingen. Ông đặc biệt quan tâm tới địa chất và khoáng vật học. Từ năm 1812-1816, Froebel học về khoa học khoáng sản với giáo sư Christian Samuel Weiss (1780–1856) ở ĐH Berlin. Ông tin rằng, quá trình kết tinh – chuyển từ dạng đơn giản sang dạng phức tạp – phản ánh một quy luật phổ quát của vũ trụ, là thứ chi phối sự trưởng thành và phát triển của con người.
Năm 1816, Froebel thành lập Viện giáo dục toàn cầu Đức ở Griesheim. Ông chuyển Viện tới Keilhau vào năm 1817 – nơi mà nó hoạt động cho tới năm 1829. Năm 1831, Froebel thành lập một viện ở Wartensee, Thụy Sỹ, sau đó chuyển trường tới Willisau. Ông tiếp tục điều hành một trại trẻ mồ côi và một trường nội trú ở Burgdorf.
Sau đó, Froebel trở về Đức. Đến năm 1837, ông thành lập một trường học giáo dục sớm kiểu mới – một khu vườn của trẻ, hay còn gọi là trường mầm non (kindergarten) dành cho trẻ 3-4 tuổi.
Bằng việc sử dụng các trò chơi, bài hát, những câu chuyện và các hoạt động, trường mầm non này được thiết kế như một môi trường giáo dục mà ở đó trẻ em có thể phát triển theo một định hướng đúng đắn thông qua việc tự hoạt động. Định hướng đúng đắn ở đây có nghĩa là, trong sự phát triển của mình, trẻ sẽ tuân theo các luật lệ được thiết lập một cách tuyệt vời về sự phát triển của con người thông qua hoạt động của trẻ. Danh tiếng của Froebel với tư cách một nhà giáo dục mầm non ngày càng tăng lên và các trường mầm non ngày càng phổ biến trên khắp các bang của Đức.
Năm 1851, Karl von Raumer – Bộ trưởng Giáo dục Phổ - đã cáo buộc Froebel phá hoại các giá trị truyền thống bằng việc truyền bá chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa xã hội. Mặc dù Froebel phủ nhận những cáo buộc này, song von Raumer vẫn cấm các trường mầm non hoạt động ở Phổ.
Năm 1852, trong khi tranh cãi vẫn còn chưa tới hồi kết thì Froebel qua đời. Mặc dù các trường mầm non vẫn tồn tại ở nhiều bang của Đức, song chúng không được tái thành lập ở Phổ cho tới năm 1860. Đến cuối thế kỷ 19, các trường mầm non đã được thành lập ở khắp châu Âu và Bắc Mỹ.
Triết lý mầm non của Froebel
![]() |
Những trường mầm non đầu tiên được thành lập ở Đức. Ảnh minh họa |
Trong cuốn Education of Man (1826), Froebel đã nêu rõ những luận điểm duy tâm sau đây: (1) Mọi sự sống đều bắt nguồn từ Chúa và tồn tại cùng Chúa; (2) Con người có một bản chất tinh thần cố hữu, đó là động lực sống dẫn đến sự phát triển; (3) Tất cả chúng sinh và ý tưởng là những phần kết nối với nhau của một vũ trụ rộng lớn, được sắp đặt và có hệ thống.
Froebel khẳng định rằng mỗi đứa trẻ sinh ra đều có một bản chất tinh thần nội tại – một động lực sống luôn tìm cách để được thoát ra ngoài thông qua tự hoạt động. Ngoài ra, sự phát triển của trẻ tuân theo học thuyết về sự hình thành, mở ra thứ hiện hữu trong mỗi cá nhân. Trường mầm non là một môi trường giáo dục đặc biệt mà sự phát triển tự chủ này diễn ra. Những giáo cụ, hoạt động xã hội và văn hóa ở trường mầm non, đặc biệt là các hoạt động vui chơi, sẽ thúc đẩy quá trình tự thực hiện này.
Froebel tin rằng trường mầm non nên tập trung vào hoạt động vui chơi. Đây là quá trình mà ông tin rằng trẻ sẽ thể hiện những suy nghĩ, nhu cầu và mong muốn sâu thẳm của mình. Sự nhấn mạnh của Froebel vào hoạt động vui chơi đối nghịch với quan điểm truyền thống vẫn phổ biến trong suốt thế kỷ 19, cho rằng vui chơi – một hình thức của sự nhàn rỗi và lộn xộn – là một yếu tố không có giá trị trong cuộc sống của con người.
Với Froebel, vui chơi tạo điều kiện cho quá trình tóm lược văn hóa, sự bắt chước những hành động nghề nghiệp của người lớn và sự xã hội hóa của trẻ. Ông tin rằng, nhân loại, trong lịch sử của mình, đã trải qua những kỷ nguyên lớn của sự phát triển văn hóa. Theo thuyết tóm lược văn hóa của Froebel, mỗi cá nhân đều lặp lại kỷ nguyên văn hóa chung trong quá trình phát triển của mình.
Qua hoạt động vui chơi, trẻ giao tiếp và bắt chước các hoạt động kinh tế và xã hội của người lớn, từ đó trẻ sẽ được dẫn dắt từ từ vào một thế giới rộng lớn hơn. Trường mầm non cung cấp môi trường khuyến khích trẻ tương tác với những đứa trẻ khác dưới sự hướng dẫn của một giáo viên đầy tình yêu thương.
Sự phổ biến của trường mầm non
![]() |
Các trường mầm non hiện đại ngày nay vẫn còn đề cao và áp dụng những triết lý giáo dục của Froebel |
Các trường mầm non mọc lên ở châu Âu và Bắc Mỹ. Ở Vương quốc Anh, Bertha Ronge – một học trò của Froebel đã thành lập một vài trường mầm non. Ở Mỹ, dân nhập cư từ Đức giới thiệu khái niệm trường mầm non. Ở Watertown, Wisconsin, Margarethe Meyer Schurz lập nên một trường mầm non dành cho trẻ em nói tiếng Đức vào năm 1856. Ở New York, Matilda H. Kriege giới thiệu và bán các giáo cụ mầm non được nhập khẩu từ Đức.
Năm 1873, tổng đốc khu trường học William Torrey Harris đã đưa trường mầm non vào hệ thống trường công lập của St. Louis, Missouri.
Cho tới đầu thế kỷ thứ 21, các giáo viên mầm non vẫn đang tiếp tục đề cao quan điểm của Froebel. Mục tiêu đầu ra quan trọng đối với trẻ mầm non là tinh thần sẵn sàng học hỏi tri thức – thứ sẽ đến sau đó trong sự nghiệp giáo dục của đứa trẻ đó.
Nguyễn Thảo(dịch)
Cùng với hai tiền bối là Socrates và Plato, nhà triết học Aristotle là một trong ba trụ cột của văn minh Hy Lạp cổ đại, là những người đặt nền móng cho triết học phương Tây.
" alt=""/>Friedrich Froebel