Nhân kỷ niệm 15 năm thành lập trường, Đại học RMIT Việt Nam đã trao số học bổng kỷ lục - 98 suất cho sinh viên tương lai và sinh viên hiện đang học tại trường trong lễ Trao học bổng diễn ra ở cả hai cơ sở Nam Sài Gòn và Hà Nội.
Rộng cửa tương lai cho sinh viên Việt Nam
Các suất học bổng được trao tặng lần này có trị giá hơn 27,5 tỉ đồng (khoảng 1,2 triệu đô la Mỹ). Tính đến năm 2016, trường đã trao tặng khoảng 890 suất học bổng trị giá hơn 205 tỉ đồng.

|
SV Lưu Thái Quang Khải nhận học bổng Hiệu trường trị giá 100% học phí |
“Nhờ các suất học bổng này, nhiều sinh viên Việt Nam có được cơ hội theo đuổi chương trình đại học theo chuẩn quốc tế. Bên cạnh việc được tài trợ một phần hoặc toàn bộ học phí, ứng viên thành công còn hưởng lợi từ đội ngũ giảng viên giàu chuyên môn và kinh nghiệm quốc tế, cơ sở vật chất và trang thiết bị chất lượng cao, cũng như mối quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp và chương trình học gắn liền với thực tế”, Giáo sư Gael McDonald - Hiệu trưởng Đại học RMIT Việt Nam - cho biết.
Ngày càng nhiều bạn trẻ khao khát vươn lên trong cuộc sống và góp sức xây dựng đất nước. Những phần học bổng giá trị của RMIT thật sự là món quà ý nghĩa và nhân văn, là nguồn động viên lớn, tiếp thêm sức mạnh để các em tiến xa trên con đường học vấn. Từ những suất học bổng này, nhiều bạn trẻ có cơ hội khẳng định năng lực, trí tuệ của mình ở môi trường giáo dục cả trong và ngoài nước.
Chương trình học bổng đa dạng của RMIT Việt Nam không chỉ đem đến cơ hội học tập trong nhiều lĩnh vực cho sinh viên có thành tích học tập xuất sắc ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới, mà còn tạo điều kiện cho những em thiệt thòi về thể chất, tài chính hay điều kiện địa lý theo đổi chương trình đại học theo chuẩn quốc tế. Chương trình thậm chí còn tạo điều kiện cho sinh viên nữ bước vào những lĩnh vực là thế mạnh của nam giới như kỹ thuật, đồng thời trang bị cho các em sẵn sàng đứng vào đội ngũ lãnh đạo nữ trong tương lai. Sinh viên muốn học các ngành thiết kế, quản lý và kinh doanh thời trang, quản lý chuỗi cung ứng và logistics, có thể chọn “Học bổng cho các ngành học ưu tiên”, trong khi các em giỏi toán có thể lấy “Học bổng Nguyễn Văn Đạo”. Ngoài ra, chương trình học bổng còn có nhiều hạng mục khác như “Học bổng Khuyến khích khu vực”, “Học bổng chắp cánh ước mơ”, “Học bổng cho sinh viên quốc tế”, v.v.
Đặc biệt, trong hai buổi lễ vừa qua, có tám sinh viên đã nhận “Học bổng Hiệu trưởng” - học bổng danh giá nhất của trường dành cho những học sinh trung học có thành tích học tập xuất sắc, đồng thời thể hiện được năng lực lãnh đạo và tích cực tham gia hoạt động cộng đồng. Ứng viên được chọn không những được miễn 100% học phí, mà trong suốt thời gian học tại trường còn được cố vấn và tham gia các chương trình phát triển nhằm hỗ trợ các em trở thành những lãnh đạo trong tương lai.
Góp phần phát triển đất nước
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (World Bank), các quốc gia có mức thu nhập vừa và thấp tại Đông Á, trong đó có Việt Nam, cần khuyến khích khả năng tiếp cận giáo dục bậc đại học để tạo ra lực lượng lao động đáp ứng những yêu cầu của thị trường lao động và nền kinh tế thị trường ngày càng rộng mở. Không chỉ truyền đạt giáo dục, các trường đại học còn được xem là nơi cung cấp các nguồn kỹ năng công nghệ có giá trị kỹ thuật, sự sáng tạo và tinh thần doanh nghiệp...
Như vậy, chương trình học bổng thường niên của RMIT không chỉ tạo cơ hội học tập cho học sinh, sinh viên khó khăn mà còn góp phần phát triển kinh tế quốc gia.

|
SV nhận học bổng chụp ảnh cùng Hiệu trưởng RMIT Việt Nam Giáo sư Gael McDonald và gia đình. |
Có thể thấy, mười lăm năm phát triển tại Việt Nam đã tạo nền tảng cho những đóng góp không ngừng của Đại học RMIT Việt Nam với cộng đồng. Không chỉ tập trung vào chương trình trao học bổng toàn phần và bán phần cho học sinh xuất sắc cũng như học sinh có hoàn cảnh khó khăn tại nhiều tỉnh thành Việt Nam, RMIT còn quan tâm đến việc chia sẻ cơ sở vật chất của trường với cộng đồng địa phương như: hợp tác với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh trong nghiên cứu sau đại học, trao đổi học thuật, và tổ chức hội nghị, hội nghị chuyên đề và hội thảo; hỗ trợ Hội Liên hiệp phụ nữ TP. HCM trong hoạt động nâng cao nhận thức về HIV/AIDS; xây dựng các Trung tâm Học liệu tại các đại học vùng của Việt Nam: Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Đại học Cần Thơ, và Đại học Thái Nguyên với sự hỗ trợ từ Atlantic Philanthropies (tổ chức từ thiện của Mỹ).
Bên cạnh đó, RMIT còn liên tục hỗ trợ và khuyến khích sinh viên tham gia vào các hoạt động từ thiện như dạy bơi cho trẻ khiếm thị, dạy tiếng Anh và các kỹ năng khác cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn, giúp người già, gây quỹ và quyên góp giúp nạn nhân lũ lụt, cũng như các sáng kiến khác…
Được biết, sự đóng góp trở lại cho cộng đồng qua chương trình học bổng là ưu tiên của trường RMIT ngay từ những ngày đầu thành lập vào năm 2001. “RMIT Việt Nam đã và đang lớn mạnh cùng Việt Nam. Chúng tôi được lợi rất lớn từ sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội tại Việt Nam và cảm thấy tự hào đã góp phần đóng góp cho cộng đồng nơi trường đang hoạt động”, GS Gael McDonald khẳng định.
Ngọc Minh
" alt=""/>RMIT trao 98 suất học bổng mừng kỷ niệm 15 năm
- “Tôi thuộc những người đánh giá rất cao vai trò của ngôn ngữ và văn hóa đối với sự trường tồn của dân tộc mà đề nghị như thế. Tôi tin rằng: Tiếng Việt còn thì văn hóa ta còn, văn hóa ta còn thì nước ta còn” – PGS. TS Đoàn Lê Giang.Khi phát biểu trong Hội thảo ở Viện Hán Nôm (27/8/2016) tôi có nói: 6 năm trước tôi đã từng có tham luận đề nghị dạy chữ Hán trong nhà trường để giữ gìn tiếng Việt và văn hóa Việt Nam, tuy nhiên nếu nói trong tình hình bây giờ thì rất khó.
Sau khi VietNamNetđăng tải bài viết có trích ý kiến của tôi, sợ mọi người không hiểu hết ý nên tôi phải đưa nguyên văn bài tham luận của tôi trình bày trong Hội thảo "Phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong thời kỳ hội nhập quốc tế" (2010), bài viết có tên "Khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường - một phương pháp quan trọng để giữ gìn tiếng Việt và văn hoá Việt Nam".
 |
|
Sau đó 2 bài viết ấy lan truyền rất mạnh trên các mạng xã hội với nhiều ý kiến trái chiều, gay gắt. Nay, tôi xin nói rõ suy nghĩ của tôi ở đây với mong muốn những người ngoài chuyên môn cũng hiểu được:
Chữ Hán là gì?
Chữ Hán là chữ được sinh ra từ nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, vào nước ta từ đời Hán (đầu CN), được các thế hệ cha ông ta Việt hóa nó, đọc bằng âm Hán Việt (tương tự như Hàn Quốc có âm Hán Hàn, Nhật Bản có âm Hán Hòa (Onyomi).
Chữ Hán đã tạo nên 60-70% vốn từ vựng tiếng Việt. Ví dụ: Hà Nội hoàn thành chỉnh trang đền Ngọc Sơn và cầu Thê Húc, thì có lẽ 100% là từ gốc Hán các thời khác nhau.
Có người nói với tôi nên dùng chữ Nho cho khỏi lầm. Dùng cũng được, nhưng nó không chuẩn, vì chữ ấy không chỉ dùng trong các văn bản Nho, mà cả Phật, Đạo hay những loại văn hóa khác.
Có người nói nên dùng chữ Hán Nôm. Tôi thì không dùng vì trên đời không có chữ đó, mà chỉ có chữ Hán và chữ Nôm.
Vậy chữ Hán là nói tắt của chữ Hán cổ đọc theo âm Việt. Cách nói này rất phổ biến, và được giới nghiên cứu mặc nhiên thừa nhận.
Vậy chữ Hán không phải là tiếng Hán, càng không phải Trung văn.
Tại sao chúng ta phải học chữ Hán?
Vì 2 lý do chính:
Thứ nhất, chúng ta muốn hiểu sâu được tiếng Việt thì chúng ta cần biết gốc gác nó ra sao, tra cứu nó thế nào.
Ví dụ: từ Minh Tâm, nghĩa là sáng lòng, vì chữ Minh là sáng. Nhưng học trò thắc mắc thế U Minh thì là gì, sáng tối à? Không, “Minh” trong trường hợp này lại là “Tối”. U Minh là mờ mịt. Học trò lại hỏi: Thế Đồng Minh là cùng sáng à? Không, Đồng Minh là cùng phe, vì nó xuất phát từ nghĩa: cùng hội thề. Vì chữ Minh là Thề.
Vậy làm thế nào để cô giáo trả lời học sinh những câu hỏi ấy, làm thế nào cho học sinh không hỏi cô mà cũng biết được.
Có hai cách:
1. Học âm Hán Việt, tự tra từ điển tiếng Việt. Đa số những người giỏi tiếng Việt hiện nay đều hình thành bằng con đường ấy. Nhưng thực ra họ cũng không thật tự tin vì từ ngữ thì vô bờ, sai đúng lẫn lộn, người ta không thể tự tin hoàn toàn được.
2. Học chữ Hán để có ấn tượng là chữ Hán rất nhiều từ đồng âm, nhiều nghĩa khác nhau. Sau đó biết cách tra từ điển. Từ điển chữ Hán có nhiều loại, rất phức tạp, phải học để có một chút vốn liếng mới tra được. Bằng cách này người ta có thể tự tra cứu, tự học tiếng Việt suốt đời.
Lý do thứ 2, học chữ Hán để cho chúng ta hiểu được văn hóa Việt Nam, chúng ta cảm thấy gắn bó với ông cha. Vì từ trước khi bỏ chữ Hán hoàn toàn vào đầu Thế kỷ XX, toàn bộ di sản văn hóa Việt Nam được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm (một thứ chữ được hình thành từ chữ Hán). Chúng ta học chữ Hán để chúng ta hiểu sâu tiếng Việt, từ đó có thể hiểu được vốn văn hóa Việt Nam.
Văn hóa cổ dù có được dịch ra tiếng Việt, như các công trình của Lê Quý Đôn chẳng hạn, nếu không có vốn chữ Hán nhất định, đọc vẫn rất khó hiểu.
Đọc Truyện Kiều, nếu có biết chữ Hán, chữ Nôm thì mới hiểu thấu đáo cái hay của nó. Chúng ta nếu có biết chút ít chữ Hán thì đến các di tích văn hóa (đình chùa miếu mạo), nhìn một tập thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng ta không thấy xa lạ, không thấy mình là "những đứa con thất cước của giống nòi" (chữ của Hoài Thanh).
Sâu xa hơn, chúng ta là người VN, trong văn hóa chúng ta có một phần văn hóa Đông Á. Chúng ta coi trọng gia đình, sống cần kiệm, đề cao đức liêm chính, hiếu kính, hiếu học...Tất cả những điều ấy có xấu không, có nên bỏ không, và có bỏ được không? Tôi không nói phương Tây không có điều ấy, đạo đức phương Tây được hình thành từ Thiên chúa giáo và văn hóa truyền thống của họ, còn đạo đức chúng ta thì từ văn hóa bản địa và văn hóa Đông Á (Nho, Đạo thuộc về văn hóa Hán, Phật thì gốc Ấn Độ).
Những điều ấy được các bậc hiền triết phương Đông nói rất hay và từ rất sớm, các sách vỡ lòng chữ Hán ngày xưa vừa dạy chữ, vừa dạy người thông qua các sách đó rất thú vị và dễ nhớ. Vậy chúng ta có nên học một chút tinh hoa từ đó qua sách chữ Hán nhập môn không?
Nếu chúng ta chỉ lo đuổi theo phương Tây và bằng lòng với ngôn ngữ chat, tin nhắn, với loại văn bản lổn nhổn tiếng Anh lẫn tiếng Việt thì rõ ràng đó là nguy cơ cho sự trong sáng của tiếng Việt và mai một văn hóa truyền thống.
Học chữ Hán có dễ không?
Dễ mà khó. Nếu học để trở thành học giả uyên thâm dịch được sách vở cổ thì rất khó, nhưng học để biết một số chữ, để biết tra từ điển Hán Việt, từ đó có thể tự học tiếng Việt suốt đời thì rất dễ. Vì người học chỉ học có 2 kỹ năng: đọc, viết, mà không phải học kỹ năng nghe, nói. Đồng thời học chữ Hán như xem tranh, như học ghép hình rất dễ nhớ và thú vị.
Tôi muốn tổ chức một nhóm biên soạn một cuốn "Vui học chữ Hán" để dạy cho học sinh cấp 2 (như kiểu nhóm Phan Thị làm ở đằng sau bộ truyện tranh (kiểu manga) "Thần đồng đất Việt", mỗi tập vài chữ). Trong thực tế học sinh chuyên văn Phổ thông năng khiếu hàng năm đều có học mấy chục tiết chữ Hán, các em học rất thú vị và tiến bộ rõ rệt khi sử dụng từ Hán Việt và học văn học cổ điển VN.
Ai là người dạy chữ Hán?
Có đấy, các khoa ngữ văn ở HN, TP.HCM, Huế đều có sinh viên Hán Nôm, học viên cao học Hán Nôm, và các sinh viên Văn học cũng được học hơn 100 tiết chữ Hán cơ sở và nâng cao.
Dạy chữ Hán trong nhà trường như thế nào?
Có nhiều cấp độ khác nhau. Học sinh THCS học 1 tiết/ tuần trong môn Ngữ văn theo kiểu "Vui học chữ Hán" - chữ Hán bằng hình ảnh. Dạy thế này rất dễ, thầy cô có một chút vốn Hán Nôm đều dạy được. Nếu trường không có thầy cô biết Hán Nôm thì bài ấy là tự chọn, thích thì tự học, không thì thôi. Lên THPT thì HS chuyên ban KHXH có thể tự chọn học sách chữ Hán cơ sở trong môn Ngữ văn, sách này có thể tự học vì nhìn chung môn chữ Hán đều có thể dễ dàng tự học. Nếu học sinh có hứng thú thì có thể học tiếp lên chuyên ngành ở ĐH. Có thể hình dung môn chữ Hán như môn tiếng Latin ở các trường tinh hoa ở Mỹ và châu Âu.
Ghi chú thêm: học chữ Hán không ảnh hưởng gì đến tiếng Anh là ngoại ngữ bắt buộc hay các ngoại ngữ khác: Pháp, Nhật, Trung. Mỗi môn này theo tôi phải học từ 8-12 tiết/ tuần.
Đại khái tôi đề nghị và hình dung việc học chữ Hán trong trường phổ thông như thế. Nhưng ít ai đọc hết tham luận của tôi. Hơn nữa tham luận của tôi được trình bày trong hội thảo chuyên ngành, nhiều kiến thức được coi là đương nhiên, nhiều tiền giả định bị lược bỏ, nhiều kết luận đã lược bỏ lập luận... nên người đọc phải có kiến thức cơ sở một chút mới hiểu đúng. Trên mạng đa số người ta chỉ đọc cái tít báo rồi nhảy dựng lên. Đa số không phân biệt được chữ Hán với tiếng Hán, tiếng Trung. Không phân biệt được từ Hán Việt, ngành Hán Nôm, hay "từ" với "chữ" Hán…
Thế nhưng ai cũng có ý kiến: đọc rồi cũng nói, không đọc cũng nói, biết cũng nói, không biết cũng nói, biết dở dở ương ương cũng nói. Tất nhiên có rất nhiều người hiểu biết, phân tích, trình bày một cách có lý lẽ, người thì nhiệt liệt đồng tình, người thì đồng tình có mức độ, người thì nêu ra những khó khăn hay điều kiện để chủ trương ấy thành khả thi…
Nói cho công bằng, đề nghị đưa chữ Hán giảng dạy trong nhà trường thì tôi không phải là người đầu tiên hay duy nhất. Nếu không kể các thời trước thì chừng hơn 10 năm nay đã có nhiều người đề nghị, như GS Cao Xuân Hạo (nhà ngữ học hàng đầu VN thế kỷ XX) đề nghị học chữ Hán xuất phát từ tính ưu việt của nó; GS Nguyễn Đình Chú (nhà ngữ văn hàng đầu) đề nghị học chữ Hán vì tính quan trọng của nó đối với môn ngữ văn; GS Nguyễn Cảnh Toàn (GS toán học, thứ trưởng Bộ GD trước đây) đề nghị học chữ Hán vì chữ Hán giúp hình thành các thuật ngữ khoa học dễ dàng, chặt chẽ và giúp hiểu rõ văn hóa VN…
Tôi thì đứng từ điểm nhìn các nước văn hóa chữ Hán: Nhật, Hàn, Đài Loan (không phải TQ) - những nước vừa phát triển hiện đại vừa giữ gìn ngôn ngữ và bản sắc dân tộc của họ mà để đề nghị học chữ Hán (Hán Việt), nhằm làm sao giữ gìn, phát triển tiếng Việt và văn hóa VN. Tôi thuộc những người đánh giá rất cao vai trò của ngôn ngữ và văn hóa đối với sự trường tồn của dân tộc mà đề nghị như thế. Tôi tin rằng: Tiếng Việt còn thì văn hóa ta còn, văn hóa ta còn thì nước ta còn.
" alt=""/>Lời tạm kết cho cuộc tranh luận dạy chữ Hán trong trường phổ thông