Ông Chu Ngọc Anh, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) thông tin khi trả lời câu hỏi của VietNamNet về vị trí của khoa học cơ bản Việt Nam tại họp báo giới thiệu Chương trình "Gặp gỡ Việt Nam" năm 2016, sáng 3/6.
Theo ông Chu Ngọc Anh, trong năm 2014, về Toán học, Việt Nam đứng thứ 50 thế giới và thứ 4 ASEAN. Tương tự, về Vật lý, chúng ta xếp thứ 60 thế giới và thứ 4 khu vực.
Với lĩnh vực Hóa học, Việt Nam xếp thứ 56 thế giới và xếp thứ 4 khu vực ASEAN. Với lĩnh vực khoa học sự sống trái đất, Việt Nam xếp thứ 57 thế giới và xếp thứ 5 trong khu vực ASEAN.
![]() |
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh cho biết, khoa học cơ bản VN đang đứng ở tốp đầu khu vực.(Ảnh: Lê Văn) |
Bộ trưởng KH&CN cũng dẫn lại sự kiện UNESCO công nhận Trung tâm Toán học và Vật lý dạng II của Việt Nam vào tháng 11 năm ngoái để khẳng định vị thế các ngành khoa học cơ bản của Việt Nam so với khu vực và thế giới.
"Trong khu vực ASEAN không có trung tâm nào về Toán và Vật lý được UNESCO công nhận như của Việt Nam", ông Anh cho hay. "Hai trung tâm được công nhận trước đó của Indonesia và Malaysia không thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản".
Việc xếp hạng này dựa chủ yếu vào số lượng các công bố quốc tế, đặc biệt là các công bố trên hệ thống tạp chí ISI. Ông Chu Ngọc Anh cho biết, trong giai đoạn 2011-2015 vừa qua, số lượng công bố ISI của Việt Nam tăng từ 15-20% tùy từng năm. Tính tổng cả giai đoạn số lượng công bố của giai đoạn này tăng gấp 2 lần so với giai đoạn trước.
Có được điều này, theo ông Chu Ngọc Anh là sự nỗ lực, đam mê, nhiệt huyết của các nhà nghiên cứu khoa học cơ bản của Việt Nam cũng như sự quan tâm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước đối với các ngành này, đặc biệt là với sự thành lập Quỹ Phát triển Khoa học Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) vào năm 2008.
Với kinh phí khoảng 300 tỉ mỗi năm, Quỹ NAFOSTED tài trợ cho hơn 300 nhiệm vụ khoa học mỗi năm, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản. Với mỗi đề tài được tài trợ, yêu cầu bắt buộc đối với chủ nhiệm đề tài là phải có 2 bài báo công bố ISI mới được nghiệm thu.
Nghiên cứu cơ bản là bắt buộc
Đánh giá về vai trò của ngành KH cơ bản đối với đời sống xã hội, ông Chu Ngọc Anh khẳng định, khoa học cơ bản đang làm thay đổi đáng kể cuộc sống hàng ngày. Từ cái điện thoại cho tới mạng Internet đều bắt nguồn từ nghiên cứu cơ bản.
"Nghiên cứu cơ bản là cơ sở để ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào cuộc sống", ông Anh nói.
Dẫn dụ một nghiên cứu điều chế tinh chất có tác dụng chống ung thư từ củ nghệ nhờ công nghệ nano phát xuất từ Chương trình "Gặp gỡ Việt Nam" GS Nguyễn Văn Hiệu cho biết, từ nghiên cứu cơ bản tới ứng dụng vào thực tiễn là một quá trình dài.
![]() |
GS Nguyễn Văn Hiệu cho rằng, khoa học cơ bản là nền tảng cho các ứng dụng khoa học công nghệ. (Ảnh: Lê Văn) |
Tuy nhiên, GS Nguyễn Văn Hiệu khẳng định, các nghiên cứu cơ bản chính là nền tảng, cơ sở cho các ứng dụng khoa học công nghệ trong thực tiễn. "Kinh phí cho nghiên cứu cơ bản chỉ khoảng 5%, 95% còn lại là nghiên cứu ứng dụng. Nhưng nghiên cứu cơ bản là bắt buộc. Tất cả đều phải bắt đầu từ", GS Hiệu khẳng định.
Khoa học cơ bản là một điểm nhất trong Chương trình "Gặp gỡ Việt Nam" năm 2016 với Hội nghị chủ chốt "Khoa học cơ bản và xã hội" hội tụ 5 nhà khoa học đoạt giải Nobel diễn ra vào đầu tháng 7 tới. Bên cạnh đó, Hội nghị cũng có sự tham gia của nhiều tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới.
TS Nguyễn Thanh Sơn, Trường ĐH Quy Nhơn, thư ký của GS Trần Thanh Vân cho biết, sự xuất hiện của các tập đoàn lớn của thế giới tại Hội nghị "Khoa học cơ bản và xã hội" là một minh chứng cho tầm quan trọng của khoa học cơ bản đối với xã hội.
Ông Chu Ngọc Anh giải thích, ở các nước phát triển, có sự gặp gỡ rất rõ giữa khoa học cơ bản và giới công nghiệp. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển như Việt Nam, khoảng cách này vẫn còn khá xa. Những sự kiện như "Gặp gỡ Việt Nam" với sự tham gia của nhiều tập đoàn kinh tế chính là cơ hội để rút ngắn khoảng cách này.
Lê Văn
" alt=""/>Khoa học cơ bản Việt Nam đang ở tốp đầu khu vựcSau lời đề dẫn, bài viết được chia thành 2 kỳ. Kỳ 1 tóm tắt một số điểm bất cập của khối phi lợi nhuận; kỳ 2 đưa ra một số lý giải, phân tích.Để có thêm một góc nhìn, dưới đây VietNamNet giới thiệu nội dung bài viết.
![]() |
ĐH Stanford - một trong số các trường thuộc khối Ivy League |
Đề dẫn:Một trong những đặc điểm quan trọng của giáo dục đại học toàn cầu hơn 30 năm qua là sự phát triển nhanh chóng của khu vực đại học tư thục, bao gồm cả lợi nhuận và phi lợi nhuận. Năm 2012, trên toàn thế giới, 56% số trường đại học là trường đại học tư, cung cấp dịch vụ đào tạo cho 31% tổng số sinh viên. Con số tương ứng tại khu vực Châu Á còn có phần “nhỉnh” hơn đôi chút (60% và 35%).
Việt Nam cũng nằm trong xu thế không thể đảo ngược kể trên. Tuy vậy, mặc dù giáo dục ĐH tư thục ra đời cũng khá lâu (từ 1989), nhưng cho đến nay, mức độ phát triển của khu vực này còn ở mức độ khá khiêm tốn so với thế giới. Năm 2013, cả nước chỉ có 83 trường ĐH, CĐ tư thục hoặc dân lập trong tổng số 421 trường trong cả nước (tỷ lệ 19%), đào tạo hơn 300.000 sinh viên trong tổng số gần 2 triệu sinh viên (tỷ lệ 15.6%). Nguyên nhân chính của việc này là do chúng ta vẫn chưa có một hệ thống chính sách đồng bộ, tường minh nhằm khuyến khích hai thành tố (cả phi lợi nhuận và vị lợi nhuận) của khu vực này phát triển lành mạnh, cạnh tranh sòng phẳng.
Trong các thảo luận về chủ đề nói trên trong những suốt hơn một năm qua trên các phương tiện truyền thông, các nhà nghiên cứu, giáo dục và giới chuyên môn thường lấy ví dụ về Mỹ, nơi được thừa nhận có hệ thống giáo dục đại học tư ra đời sớm và phát triển nhất trên thế giới, làm hình mẫu để so sánh và học tập.
Một cảm nhận chung là giáo dục đại học vị lợi nhuận tại Mỹ có chất lượng đang ngày càng bị “xói mòn” và ngược lại, giáo dục đại học phi lợi nhuận cần mới thực sự đem lại chất lượng cho người học. Chùm bài viết gồm 2 kỳ này đem đến một góc nhìn khác so với "cảm nhận chung" nói trên.
Mặt trái của đại học phi lợi nhuận
Nước Mỹ nổi tiếng với hệ thống giáo dục đại học phi lợi nhuận uy tín và có chất lượng bậc nhất thế giới.Việc được đi học tại các trường đại học này là ước mơ của hàng triệu sinh viên trong cũng như ngoài nước Mỹ. Điều này có được phần lớn là nhờ hệ thống chính sách tương đối hoàn chỉnh cũng như tầm nhìn và nỗ lực của các nhà giáo dục.
Tuy vậy, trong những năm gần đây, hệ thống này bắt đầu xuất hiện một số mặt trái, mà ngoài giới chuyên môn, không phải ai cũng biết đến. Dưới đây, xin được tóm tắt một số vấn đề chính:
Mặt trái thứ nhất là việc nhiều đại học tư phi lợi nhuận thu học phí quá cao. Phe ủng hộ lập luận: học phí (của đại học phi lợi nhuận) là hợp lý bởi nó tương ứng với chất lượng đào tạo và với cơ chế “không chia cổ tức cho cổ đông”, họ sẽ không có động lực thu phí cao bằng mọi giá giống như khu vực đại học vị lợi nhuận. Phe phản đối bác bỏ luận điểm này, họ chỉ ra rằng thực tế, đại học phi lợi nhuậnthu phí quá cao một cách bất hợp lý. Một ví dụ mà phe phản đối thường lấy để minh hoạ là việc các trường thuộc nhóm Ivy League (các đại học tư phi lợi nhuận hàng đầu tại Bờ Đông nước Mỹ), nơi có học phí lên tới 40.000-60.000 USD/năm gấp 2-4 lần mức học phí tương ứng tại các trường đại học công hoặc đại học tư vị lợi nhuận tại nước này. Ví dụ khác là việc sinh viên quốc tế hoặc trong nhiều trường hợp là sinh viên từ các Bang khác đến học tại các trường tư phi lợi nhuận thường bị thu phí gấp 1,5-2 lần sinh viên bản địa trong khi các đối tượng sinh viên này đều chỉ thụ hưởng một chương trình đào tạo như nhau.
![]() |
Một góc ĐH Harvard |
Mặt trái thứ hai là vấn đề bất bình đẳng, xuất phát từ chính bất cập thứ nhất. Vì học phí cao, con em các gia đình có thu nhập thấp sẽ ít có cơ hội được đi học tại các trường tư phi lợi nhuận. Một khảo sát mới đây của Hiệp hội quốc gia các nhà quản lý kinh doanh khối Đại học và Cao đẳng (National Association of College and University Business Officers) cho thấy chỉ 16% sinh viên thuộc các trường tư phi lợi nhuận hàng đầu hưởng trợ cấp từ chương trình Pell Grant (chương trình của Chính Phủ Mỹ hỗ trợ tài chính cho sinh viên nhà nghèo). Cũng theo nghiên cứu này, con số tương ứng đối với Đại học Texas tại El Paso, Đại học California tại Riverside và Đại học California tại Berkeley (là những đại học công có chất lượng tương đương các đại học tư phi lợi nhuận hàng đầu) là 59, 53 và 33%. Thực trạng này đang có xu hướng trầm trọng hơn trong những năm gần đây khi nhiều trường tư phi lợi nhuận bắt đầu áp dụng chính sách ưu tiên cho con em các gia đình có nhiều đóng góp tài chính, hiến tặng cho trường.
Mặt trái thứ ba là tình trạng chi tiêu bất hợp lý, hoang phí và thiếu hiệu quả tại các trường đại học tư phi lợi nhuận. Với học phí cao cộng với nguồn hiến tặng dồi dào từ phía xã hội (các cựu sinh viên, doanh nghiệp, người hảo tâm …), các trường đại học tư phi lợi nhuận luôn có nguồn lực tài chính vượt trội hơn hẳn so với khu vực đại học khác (đại học công và đại học tư vị lợi nhuận). Với nguồn lực như vậy, bên cạnh những khoản chi tiêu đúng địa chỉ, phe phản đối đã chỉ ra việc xuất hiện ngày càng nhiều những khoản chi hoang phí và thiếu hiệu quả tại các trường đại học tư phi lợi nhuận. Một bài viết trên tờ The Atlantic đăng tháng 10 năm ngoái chỉ ra trường hợp Đại học Princeton bỏ tới 30 triệu USD chỉ để xây dựng một khu ký túc xá “xa hoa” với sức chứa vỏn vẹn 500 sinh viên (trung bình 60.000 USD/đầu sinh viên).
Mặt trái thứ tư là sự mất cân đối trong đầu tư của nhà nước giữa học sinh trường tư phi lợi nhuận và trường công. Nhầm tưởng chung từ xã hội là các đại học tư phi lợi nhuận tự lo phát triển ngân sách từ nguồn “xã hội hoá” như nguồn hiến tặng của các cá nhân, tổ chức mà không có hỗ trợ nhà nước. Tuy vậy, với chính sách miễn thuế đối với các khoản hiến tặng đối đại học tư phi lợi nhuận, vô hình chung, với mỗi khoản tiền thu được từ hiến tặng, nhà nước cũng sẽ trợ cấp một phần một cách gián tiếp thông qua hình thức miễn thuế. Ví dụ, khoản tiền 30 triệu để xây ký túc xá tại Đại học Princeton ở trên trong thực tế được tài trợ bởi bà Meg Whitman, chủ tịch eBay. Với khoản tiền này thì bà Whitman sẽ được miễn thuế 10 triệu. Tức là, về bản chất, trong 30 triệu tiền xây ký túc xá của Đại học Princeton, bà Whitman chỉ tài trợ 2/3, 1/3 còn lại thực tế là từ tiền thuế của dân. Có thể thấy cơ chế khuyến khích hiến tặng cho trường đại học tư phi lợi nhuận hiện vẫn có lỗ hổng khiến cho việc miễn thuế có thể được áp dụng vào những khoản đầu tư không thực sự cần thiết. GS. Robert Reich, trong một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra một nghịch lý: trung bình một năm sinh viên của Đại học Princeton (một trường tư phi lợi nhuận) được nhà nước đầu tư qua đường miễn thuế lên tới 50.000 USD, gấp hơn 10 lần con số tương ứng của trường công thong thường (khoảng 4.000 USD).
(Tác giả xin chân thành cảm ơn TS. Vũ Thị Phương Anh, Trường ĐH Kinh tế - Tài chính Tp. HCM; ThS. Trần Ngọc Diệp, Trường ĐH Victoria Weillington, New Zealand đã đọc góp ý)
(* Toàn bộ nội dung của bài viết này chỉ phản ánh quan điểm của tác giả)
Kỳ 2: Án oan đối với đại học tư vị lợi nhuận?" alt=""/>Góc nhìn khác về đại học phi lợi nhuận ở Mỹ