Em không muốn làm bạn trai em đau lòng, em yêu anh ấy, nhưng cũng muốn khám phá một phần bản năng tình dục khác trong mình, với phụ nữ. Em rất bối rối, phải làm sao bây giờ? Em thật ra là người đồng tính phải không?
Độc giả giấu tên/Dân trí
Doanh nghiệp này khẳng định, khi tham gia khóa đào tạo này, các học viên sẽ có nhà lầu, xe hơi, thu nhập cao, “chắc chắn sẽ được các cô gái xinh đẹp và đàn ông điển trai say mê”.
" alt=""/>Yêu bạn trai nhưng em gần như chắc chắn mình là đồng tính nữ“Đến khi trở thành kinh đô của cả nước thống nhất, Huế càng trở thành nơi tập trung của các báu vật”, TS. Phan Thanh Hải - GĐ Sở VH-TT tỉnh TT-Huế (Nguyên GĐ Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế) cho biết.
Dù Huế từng là trung tâm hội tụ của các cổ vật, báu vật của đất nước, nhưng đến nay, rất nhiều trong số ấy đã bị tản mát đi khắp nơi trên thế giới hoặc đã “bặt vô âm tín”.
Căn cứ vào các tư liệu lịch sử, có thể thấy những đợt mất mát lớn của Huế đã từng xảy ra không ít lần. Tiêu biểu vào các năm 1775, 1862, 1885, 1945, 1947, 1972... Vụ mất mát lớn nhất của Huế trong lịch sử gắn liền với sự kiện Thất thủ kinh đô (ngày 5/7/1885, tức 23/5 năm Ất Dậu).
Tấn công vào kinh đô Huế, quân đội Pháp đã cướp bóc, giết hại người dân dã man... Huế bị cướp đi phần lớn những gì quý báu nhất.
Tư liệu lịch sử của Linh mục Père Siefert - người chứng kiến sự kiện thảm khốc này cho biết, khi đối chiếu với bảng kiểm kê tài sản của hoàng gia lập trước ngày 5/7/1885 với những gì đã mất, quân Pháp đã cướp: “228 viên kim cương, 266 món nữ trang có nạm kim cương, hại trai, hạt ngọc, 271 đồ bằng vàng trong cung của bà Từ Dũ…
![]() |
“Cành vàng lá ngọc” trong hệ thống bảo vật cung đình triều Nguyễn. |
Tại các tôn miếu thờ các vua: Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị, hầu hết các thứ có thể mang đi như mũ miện, đai áo, thảm đệm, triều phục... đều bị cướp. Phần lớn của cải trong hoàng cung triều Nguyễn và cả trong giới quý tộc Huế đã bị người Pháp cướp bóc, đưa về Pháp”.
Một dạng thất thoát khác, những cổ vật do người dân tình cờ phát hiện nhưng không báo chính quyền, mà bán cho người buôn bán phế liệu hoặc buôn bán cổ vật. Hầu hết những cổ vật dạng này rời khỏi Huế, số ít khác “ở lại” nhưng trong các sưu tập tư nhân, rất hiếm khi vào các bảo tàng nhà nước.
Gian nan đưa cổ vật hồi hương
Được biết, sau khi lên ngôi hoàng đế (năm 1885), vua Đồng Khánh nỗ lực đòi lại một số báu vật bị quân Pháp cướp mất trước đó.
Triều Nguyễn tốn không ít sức lực và tiền bạc để lấy lại được phần lớn ấn tín quan trọng nhất và 9 khẩu đại bác bằng đồng vốn tượng trưng cho sức mạnh triều đại (bộ Cửu Vị Thần Công).
TS. Huỳnh Thị Anh Vân - GĐ Bảo tàng cổ vật cung đình Huế cho biết, hiện đơn vị quản lí hơn 11.500 hiện vật, trong đó có 8.800 hiện vật được bảo quản trong kho và trưng bày tại một số điểm như cung An Định, Tả Vu của điện Cần Chánh…; khoảng hơn 2.760 hiện vật được bảo quản, trưng bày tại các khu lăng tẩm và di tích khác.
![]() |
Ấn vua triều Nguyễn bằng vàng nguyên khối. |
Đặc biệt, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế cũng đang bảo quản, trưng bày chiếc án thư triều Nguyễn và bộ dụng cụ đựng phi tiêu của vua Tự Đức. Dù đã hồi hương hơn 30 năm, nhưng đây có lẽ là vụ kiện lịch sử trong việc đòi lại cổ vật của Việt Nam khi thưa kiện ra tòa quốc tế.
Tài liệu lịch sử để lại cho biết, lúc đó, khi còn sống ở Pháp, cựu hoàng Bảo Đại ghé qua một bảo tàng ở Paris. Tại đây, ông thấy một số cổ vật triều Nguyễn được trưng bày để bán đấu giá. Trong đó, có một án thư triều Nguyễn, một bộ dụng cụ đựng phi tiêu của vua Tự Đức, nhiều đồ dùng sành sứ.
Để đòi lại những cổ vật này, Bảo Đại đâm đơn thưa kiện lên tòa án ở Paris nhưng bị bác, do không có tư cách đại diện cho Việt Nam, chỉ có Chính phủ Việt Nam đủ tư cách thưa kiện.
Bảo Đại trình báo Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp để nhờ can thiệp.
Đại sứ quán Việt Nam gửi công văn về các bộ ngành liên quan, lãnh đạo tỉnh UBND TP Huế, lãnh đạo tỉnh TT-Huế.
Theo ông Nguyễn Văn Mễ - nguyên Chủ tịch UBND tỉnh TT-Huế, vào năm 1987 - khi ông đương chức Chủ tịch UBND TP Huế thì nhận được công văn nên họp bàn tìm phương án kiện đòi lại cổ vật.
Một hội đồng được thành lập, luật sư làm thủ tục thưa kiện, tìm nguồn gốc các cổ vật.
UBND TP Huế nhờ những người phụ trách trông coi Viện Bảo tàng Huế (nay là Bảo tàng cổ vật Cố đô Huế) giai đoạn 1958-1979 hoàn thiện hồ sơ chứng minh nguồn gốc hai cổ vật từng bị lấy bất hợp pháp.
Có chứng cứ, Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp làm đơn kiện ra tòa án.
Kết quả, vụ kiện đã đòi thành công hai cổ vật đưa về bảo tàng trưng bày. Đáng tiếc, nguồn gốc một số đồ cổ sành sứ do không chứng minh được nên không thể đòi.
“Những năm gần đây, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tiếp nhận một số cổ vật hiến tặng đưa về từ Pháp và 60 cổ vật khác do các nguồn hiến tặng trong nước. Các cổ vật này được trưng bày và phát huy giá trị tại Bảo tàng cổ vật Cố đô Huế”, TS. Hải cho hay.
Không chỉ hồi hương cổ vật từ nước ngoài, năm 2016, lần đầu tiên sau 71 năm kể từ thời điểm vua Bảo Đại thoái vị, một số lượng lớn bảo vật triều Nguyễn được đưa từ Hà Nội về Huế trưng bày.
“Các cổ vật cung đình triều Nguyễn bị thất thoát quá nhiều. Muốn hồi hương các cổ vật, cần hội tụ đủ các điều kiện cần thiết…”, TS. Anh Vân cho hay.
Quang Thành - Thanh Hải - Hương Lài
(Còn nữa)
Cụ bà Lê Thị Dinh - cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn từ trần vào tối ngày 21/2 tại phủ Kiên Thái Vương (đường Phan Đình Phùng, TP Huế), hưởng thọ 102 tuổi.
" alt=""/>Báu vật cung đình triều Nguyễn lưu lạc đến Pháp, gian nan hồi hươngKhoảng 2.500 năm nay, cư dân của ngôi làng trên sườn núi Antia (phía Đông - Nam hòn đảo Evia của Hy Lạp) đã sử dụng sfyria - một loại ngôn ngữ lạ lùng mà chỉ họ mới có thể hiểu được.
Nơi đây không có khách sạn hay nhà hàng trong vòng bán kính 40km. Ngôi làng xa xôi đến nỗi nó không có mặt trên Google Maps.
Trẻ em học huýt sáo
Không ai còn nhớ chính xác bằng cách nào và vào lúc nào dân làng bắt đầu sử dụng sfyria. Các nhà ngôn ngữ lý giải từ sfyria xuất phát từ styrizo trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "huýt sáo".
Điều đáng lưu ý là sfyria chỉ được thế giới bên ngoài biết đến vào năm 1969, khi một chiếc máy bay rơi ở vùng núi phía sau làng Antia. Một đoàn tìm kiếm cứu nạn được phái đến để tìm viên phi công mất tích và họ vô cùng ngạc nhiên lẫn thích thú khi nghe những người chăn cừu phát ra hàng loạt thanh âm khó hiểu vang vọng khắp hẻm núi.
Với nơi xa xôi, không có ánh sáng văn minh soi rọi, việc huýt sáo truyền tin ở Antia tỏ ra rất hữu dụng trong một thời gian dài. Đường sá, nước và điện chỉ đến được đây khoảng 30 năm trước và cho đến nay vẫn chưa có dịch vụ điện thoại di động".
Yiannis Tsipas, một người chăn dê 50 tuổi và là người biết huýt sáo đàm thoại trẻ nhất ở làng, nói: "Cho đến năm 1997, chỉ có một chiếc điện thoại duy nhất ở Antia của một người làng tên là Koula, vì vậy một khi ai đó đi Athens, họ gọi vào đây và thông báo đến nơi an toàn. Và Koula huýt sáo truyền tin này đến gia đình của người đó".
Ngôn ngữ sfyria cũng giúp cho đôi lứa yêu nhau. Một phụ nữ kể lại: "Một đêm nọ, một thanh niên kẹt trong núi với những con cừu của mình do tuyết rơi dày đặc. Anh ta biết rằng ở một nơi nào đó quanh đây có một cô gái cũng bị kẹt với những con dê của mình.
Anh ta bèn tìm một cái hang, nhóm một đống lửa và huýt sáo mời cô gái đến cùng sưởi ấm. Cô gái đến, và đó là cách mà cha mẹ tôi phải lòng nhau".
Người lớn giao tiếp nhau bằng huýt sáo
Mỗi tiếng huýt sáo tương ứng với một chữ trong bảng chữ cái. Khi đặt chúng theo thứ tự sẽ tạo thành một từ. Theo cách này, họ có thể trò chuyện và hiểu lẫn nhau.
Theo Dimitra Hengen, một nhà ngôn ngữ học người Hy Lạp đã đến Antia trong thời gian gần đây, sfyria là một loại ngôn ngữ Hy Lạp thể hiện bằng tiếng huýt sáo, trong đó những chữ cái và âm tiết phù hợp với âm điệu và tần số đặc trưng.
Do sóng âm của tiếng huýt sáo khác với giọng nói, những thông điệp thể hiện qua sfyria có thể lan xa 4km đến các thung lũng, hay độ lan truyền gấp 10 lần tiếng hét.
Nỗ lực bảo tồn
Người dân hãnh diện trong việc lưu giữ truyền thống cho đời con, đời cháu. "Khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi đã học sfyria với tiếng Hy Lạp để sinh tồn. Đó là cách sống của chúng tôi và nếu nó biến mất thì bản sắc văn hóa của làng này cũng mất theo", Panagiotis Tzanavaris, người đàn ông 69 tuổi huýt sáo giỏi nhất làng, nói.
Tuy nhiên, cách đây vài thập niên, dân số của Antia đã giảm từ 250 người xuống còn 37 người, gồm đa số là những người già bị rụng răng. Họ không còn huýt sáo với âm giọng sắc bén nữa.
Sfyria là một trong những ngôn ngữ độc đáo và hiếm hoi nhất trên thế giới
Trong khi nhiều người biết huýt sáo ở đây theo định luật tự nhiên, già rồi chết hay mất hết răng, những người trẻ lại tìm cách bỏ làng đến thành phố sinh sống. Ngày nay, chỉ còn 6 người trên hành tinh có thể "nói" được thứ ngôn ngữ như tiếng chim hót này.
Tại Antia, những người còn biết được loại ngôn ngữ này không biết truyền lại cho ai vì con cái của họ đã xuống núi tìm sinh kế nơi đô thị. "Khi còn là một cô gái, tôi có thói quen đi trong đêm tối với chiếc khăn che mặt phủ xuống từ trên đầu. Lúc đó, vừa đi tôi vừa huýt sáo vang khắp núi rừng... Còn hiện giờ thật xấu hổ khi không còn răng để thể hiện việc truyền thông tin này nữa", bà Zografio Kalogirou, 70 tuổi, người làng Antia, cho biết.
Vì vậy, vào năm 2010, những người già của làng đã tìm cách hồi sinh ngôn ngữ đang chết dần này bằng cách thiết lập Tổ chức văn hóa Antia, trụ sở đặt ở ngôi trường học đã đóng cửa trong làng. Panagiotis Tzanavaris, người đàn ông 69 tuổi huýt sáo giỏi nhất làng cũng đã làm một điều gì đó chưa từng có với truyền thống của làng mình: Dạy mọi người từ các thị trấn khác cách huýt sáo sfyria.
Sau 7 năm học, người trẻ nhất nói ngôn ngữ cổ của Antia hiện là người đưa thư 31 tuổi sống ở Karystos, cách làng 40km. Ông nói: "Trong nhiều năm, người dân ở Antia đã lo lắng về một ngôn ngữ đang biến mất. Nhưng với sự chung tay của mọi người, chúng tôi tin rằng ngôn ngữ này sẽ tồn tại".
Nguồn: BBC/ Phụ nữ Việt Nam
“Khi tôi còn đi học, tôi hiểu rằng nếu bây giờ bạn lắng nghe những đàn anh lớn tuổi của mình, thì khi bạn có tuổi, mọi người sẽ lắng nghe bạn”.
" alt=""/>Làng duy nhất thế giới giao tiếp bằng... huýt sáo