
Đánh giá phiên bàn tròn này là cơ hội tốt để các quốc gia cùng trao đổi những ý tưởng và thực tiễn tốt trong việc theo đuổi hành trình chuyển đổi số, bà Agne Vaiciukeviciute, Thứ trưởng Bộ Giao thông và Truyền thông Lithuania cho rằng: Các chính sách của Chương trình nghị sự số hóa, cơ sở hạ tầng số mạnh mẽ với giá cả phải chăng và tiếp cận rộng rãi, sẽ cung cấp “xương sống” cho việc số hóa các nền kinh tế.
Các diễn giả đều thống nhất rằng đại dịch Covid -19 đã tác động mạnh mẽ, buộc các quốc gia phải đẩy nhanh chuyển đổi số.
Nhấn mạnh ý nghĩa của chuyển đổi số với lĩnh vực giáo dục, ông Thomas Davin, Giám đốc Đổi mới toàn cầu của UNICEF thông tin: Trước Covid-19, chúng ta có khoảng 260 triệu trẻ em không được đến trường và khoảng 825 triệu trẻ em, những người trẻ tuổi đang trên đà đến tuổi trưởng thành không được trang bị đủ kỹ năng phù hợp ở cấp trung học, mà lẽ ra họ phải nhận được từ các trường học.
Hiện tại, trong đại dịch, có 1,6 tỷ trẻ em bị gián đoạn việc học tập. Hơn 18 tháng đã trôi qua kể từ khi dịch mới bùng phát nhưng có khoảng 18 triệu trẻ em vẫn chịu hậu quả của việc đóng cửa trường học. Giải pháp duy nhất cho điều này là kết nối kỹ thuật số. “Nếu các trường học, các cộng đồng và những đứa trẻ đó được kết nối, đây thực sự là bước đầu tiên của sự tiến bộ”, ông Thomas Davin nói.
Ông Tsoinyana Rapapa, Bộ trưởng Bộ Công nghệ, Khoa học và Truyền thông của Lesotho nhấn mạnh: Đại dịch đã thách thức cách chúng ta vận hành cuộc sống bình thường. Và trong khi đại dịch không bỏ qua bất cứ quốc gia nào, có những bài học quan trọng để lại. “Chúng tôi đã học được rằng cần đặt nhiều nỗ lực vào chuyển đổi số để biến lý thuyết trở thành thực tiễn”, ông Tsoinyana Rapapa chia sẻ.
Theo ông, đại dịch đã chỉ ra rằng Chính phủ cần ưu tiên các chính sách và hỗ trợ hạ tầng ICT cho quá trình chuyển đổi số các dịch vụ. Các sáng kiến của Chính phủ đã được thực hiện độc lập ở nhiều quốc gia khác nhau. Sở dĩ như vậy là do tính địa phương hóa ở mỗi đất nước.
Do đó, đại diện Lesotho đề xuất các nước cần tập trung thông tin để thúc đẩy hiệu quả việc sử dụng ICT và Chính phủ cần đóng vai trò dẫn dắt. “Điều này bao gồm những chính sách thúc đẩy đầu tư nội dung bản địa ở các nước đang phát triển. Các bên liên quan cũng cần có sự tham gia vào cuộc mạnh mẽ, bao gồm cả khu vực tư và một số khu vực khác”, ông Tsoinyana Rapapa lý giải.
Song song đó, các nước cần đầu tư xây dựng những quỹ dự phòng để giảm thiểu bất bình đẳng kỹ thuật số; đồng thời đảm bảo mọi người có quyền truy cập Internet với giá cả phải chăng, đáng tin cậy và đủ băng thông đáp ứng nhu cầu thường nhật.
“Tôi kêu gọi các cơ quan quản lý liên tục thích ứng với sự thay đổi, tự làm mới để hiểu rõ những vấn đề và quan điểm chuyển đổi số. Lời kêu gọi này cần sự hợp tác giữa các chính phủ, các cơ quan quản lý và nó sẽ đem lại lợi ích cho tất cả mọi người”, Bộ trưởng Bộ Công nghệ, Khoa học và Truyền thông của Lesotho nêu quan điểm.
Chuyển đổi số là chất xúc tác quan trọng nhất cho tăng trưởng
Với diễn giả đến từ Cơ quan quản lý CNTT-TT (CITRA) của Kuwait, ông Salim M. Al-Ozainah, Chủ tịch, Tổng giám đốc điều hành đơn vị này nhận định, đại dịch Covid-19 đã tạo ra những xáo trộn khiến quá trình chuyển đổi số phải diễn ra với tốc độ nhanh ngoài kỳ vọng.
Các chính phủ đang phải chuyển nhiều dịch vụ công sang trực tuyến nhằm đảm bảo người dân có thể tiếp cận chúng. Các lĩnh vực tư nhân cũng thúc đẩy giao dịch trực tuyến, giáo dục chuyển sang trực tuyến để học sinh, sinh viên có thể tiếp tục học tập ... “Điều kiện mới buộc các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp phải có chính sách, chiến lược phù hợp để thích ứng”, ông Salim M. Al-Ozainah nói.
![]() |
Phiên Hội nghị Bộ trưởng vào tối 14/10 có chủ đề “Số hóa cuộc sống thường nhật: Các dịch vụ Chính phủ và nội dung số thúc đẩy chuyển đổi số” (Ảnh: Lê Anh Dũng) |
Đại diện CITRA nhận xét: Chuyển đổi số cùng việc khai thác ứng dụng đám mây sẽ giúp cắt giảm thời gian, chi phí và đạt được sự linh hoạt, hiệu quả hơn trong thông tin liên lạc và các lĩnh vực khác của đời sống kinh tế - xã hội.
Không những thế, quá trình này sẽ mở rộng phạm vi phát triển, sự thay đổi cũng như tính chính xác của việc chuyển đổi ưu tiên của nền kinh tế, các thị trường địa phương và các lĩnh vực công nghiệp. Chuyển đổi số là động lực, chất xúc tác quan trọng cho tăng trưởng.
Ba ưu tiên chính về chuyển đổi số
Cũng nhìn nhận tác động của đại dịch ở khía cạnh tích cực, ông Majed Sultan Al Mesmar, Cục trưởng Cục Viễn thông và Chính phủ số (TDRA), Các tiểu vương quốc Ả rập cho rằng, đại dịch đã giúp các nước nhận ra những lợi ích to lớn của chuyển đổi số, dù ở khía cạnh kinh tế - xã hội hay môi trường.
Chia sẻ kinh nghiệm của nước mình, Thứ trưởng Bộ Giao thông và Truyền thông Lithuania, bà Agne Vaiciukeviciute cho biết, dựa trên nền tảng của cơ sở hạ tầng số, Lithuania đã xác định 3 ưu tiên chính về chuyển đổi số gồm quản trị CNTT công, dữ liệu mở và thúc đẩy các đổi mới kỹ thuật số.
Lithuania đang khám phá cách quản trị CNTT để tạo cơ sở kỹ thuật số mạnh mẽ cho khu vực công nhằm tăng trưởng GDP, giảm chi tiêu công, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, củng cố đầy đủ nguồn dữ liệu nhà nước để các dịch vụ và quy trình cơ sở hạ tầng CNTT của các tổ chức công được quản lý tập trung một cách hiệu quả, an toàn.
“Chúng tôi đã đầu tư khoảng 95 triệu Euro để đảm bảo sự thành công của cuộc cải cách này. 15 triệu Euro khác được phân bổ nhằm tăng cường an ninh mạng cho hệ thống ID quốc gia. Chúng tôi sẽ thúc đẩy hệ thống dữ liệu mở trong chính sách công để cải thiện chất lượng và nền tảng cho cộng đồng khoa học công và các doanh nghiệp. Các cộng đồng khác cũng có thể sử dụng nó một cách dễ dàng”, bà Agne Vaiciukeviciute chia sẻ.
Chính phủ Lithuania còn ưu tiên thúc đẩy đổi mới kỹ thuật số. Nỗ lực phục hồi kinh tế và phát triển các mạng LAN bền vững đã mang tới những ưu đãi tài chính trị giá 50 triệu Euro cho các công ty khởi nghiệp, sẽ có nhiều sản phẩm, giải pháp về công nghệ Blockchain, AI và các quy trình đô thị mà nước này coi là một phần quan trọng trong chính sách chuyển đổi số.
Thách thức để duy trì niềm tin trong môi trường số
Với Indonesia, bà Mira Tayyiba, Tổng thư ký Bộ TT&TT nước này khẳng định, công nghệ số đã trở thành trụ cột của Indonesia trong việc ứng phó với đại dịch Covid-19. Kể từ lúc bắt đầu dịch bệnh, khu vực số nằm trong nhóm tăng trưởng nhanh nhất, đạt tỷ lệ 10,58% vào năm 2020 và tăng trưởng lũy kế 7,78% trong nửa đầu năm nay.
Lĩnh vực kỹ thuật số cũng là động lực để các doanh nghiệp kiên trì vượt qua khủng hoảng. Đại dịch đã thúc đẩy các quốc gia làm việc chăm chỉ hơn và hiệu quả hơn khi đẩy nhanh chương trình chuyển đổi số.
“Đại dịch thúc đẩy nỗ lực của Chính phủ trong việc cung cấp các dịch vụ công để tạo ra sự phục hồi ở Indonesia. Chúng tôi đã xây dựng 1 ứng dụng tích hợp nhằm hỗ trợ người dân, đến tháng 10/2021 đã có 52 triệu người dùng. Ứng dụng này cung cấp đăng ký tiêm chủng, dịch vụ số và nhiều tiện ích khác. Công nghệ số tạo ra cơ hội cho tất cả mọi người, bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tham gia và được hưởng lợi từ các hoạt động của nền kinh tế”, bà Mira Tayyiba cho hay.
Tuy vậy, Bộ trưởng Bộ TT&TT Indonesia cho rằng: Khả năng tiếp cận dịch vụ số do hạ tầng thiếu hụt hoặc chi phí cao hoặc không đủ năng lực sử dụng công nghệ số chắc chắn sẽ làm rộng thêm khoảng cách số. Vì thế khả năng kết nối và băng thông phải được tăng lên.
Trong bối cảnh này, Chính phủ Indonesia đã thông qua các bộ, ban, ngành có liên quan đã tập trung vào việc cung cấp truy cập Internet đáng tin cậy với giá cả phải chăng cũng như trang bị cho người dân kiến thức cần thiết để sẵn sàng số hóa.
Trao đổi tại phiên bàn tròn, từ kinh nghiệm của đơn vị đã và đang tham gia cùng các cơ quan Chính phủ trong việc đưa dịch vụ của nhà nước đến với người dân, Tổng giám đốc Viettel Lê Đăng Dũng đã chỉ ra một trong những thách thức đối với chuyển đổi số thời kỳ hậu đại dịch là việc duy trì niềm tin trong môi trường số để mọi người tự tin làm việc và sinh sống chủ yếu trong môi trường đó.
“Đảm bảo an ninh mạng là điều kiện tiên quyết. Việc xây dựng một môi trường kỹ thuật số an toàn và minh bạch phải là nhiệm vụ chung của các chính phủ và doanh nghiệp”, ông Lê Đăng Dũng nhấn mạnh.
Nhóm phóng viên ICT
Những doanh nghiệp công nghệ Việt trình diễn nhiều giải pháp, sản phẩm Make in Việt Nam tại gian hàng trực tuyến 2D, 3D trong sự kiện ITU Digital World, đem đến những trải nghiệm độc đáo cho người xem.
" alt=""/>Hội nghị Bộ trưởng ITU: CovidCải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động quản lý nhà nước đã được tỉnh Hậu Giang đưa thành chiến lược phát triển quan trọng của tỉnh. Những hoạt động cụ thể về cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính đã được tỉnh thực hiện và đạt nhiều kết quả tích cực trong thời gian qua.
Trong đó, cải cách thủ tục hành chính (TTHC), áp dụng cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông, gắn với xây dựng chính quyền điện tử được xem là “chìa khóa” giúp tỉnh thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội. Hiện toàn tỉnh đã đạt 100% tỷ lệ thực hiện một cửa, một cửa liên thông. Hậu Giang đặt mục tiêu đến năm 2025 sẽ cải cách cơ bản thủ tục hành chính, nâng mức độ hài lòng của người dân và DN về thủ tục hành chính đạt mức trên 80%.
Kết quả giải quyết TTHC quý 3/2021 đạt tỷ lệ 97,1%
![]() |
Chuyển giao tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính sang Bưu điện |
Tính đến nay, Hậu Giang đã ban hành 12 quyết định công bố 291 TTHC, trong đó 238 TTHC ban hành mới, sửa đổi bổ sung và 53 TTHC bãi bỏ. Tất cả các TTHC đều được, cập nhật, niêm yết công khai theo quy định.
Trong quý III năm 2021, toàn tỉnh đã tiếp nhận 11.212 hồ sơ giải quyết TTHC, hoàn thành giải quyết 11.817 hồ sơ, đạt 97,1%. Trong đó hồ giải quyết theo quy trình 5 tại tại chỗ đạt 5927/5933, đạt 99,9%. Trong tổng số 291 TTHC được công bố, tỷ lệ rà soát cắt giảm thời gian giải quyết TTHC đạt trên 30% và 662 TTHC không phát sinh hồ sơ.
Bên cạnh đó, hoạt động cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, cải các chế độ công vụ, cải cách tài chính công cũng được đẩy mạnh. Hậu Giang đã triển khai khá kịp thời các chính sách cải cách về thuế, thu nhập, tiền lương, tiền công, và các chính sách an sinh xã hội, thực hiện cơ chế tự chủ tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập.
Kiện toàn nhiều quyết định bản lề về chuyển đổi số
Trên lộ trình xây dựng và thực hiện chủ trương theo “chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” của Chính phủ, Sở Thông tin và Truyền thông (TT-TT) Hậu Giang đã tham mưu cho UBND tỉnh và Ban Chỉ đạo xây dựng Chính quyền điện tử, Cải cách hành chính và Chuyển đổi số tỉnh Hậu Giang ban hành nhiều văn bản, quyết định, đề án, kế hoạch mang tính bản lề, mở đường cho việc đẩy mạnh quá trình ứng dụng công nghệ số, từng bước thực hiện chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, tiến tới một nền kinh tế số, xã hội số.
Trong số đó có thể kể đến các văn bản như: quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Chính quyền điện tử, cải cách hành chính và chuyển đổi số tỉnh Hậu Giang; phê duyệt Đề án vị trí việc làm của Trung tâm Giám sát, điều hành đô thị thông minh tỉnh Hậu Giang; dự án xây dựng Chính quyền điện tử và đô thị thông minh tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2021 – 2025; Kế hoạch triển khai cung cấp 100% dịch vụ công đủ điều kiện lên trực tuyến mức độ 4 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2021; Kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện chuyển đổi số…
Tăng tốc xây dựng chính quyền điện tử, đô thị thông minh
![]() |
Phát triển kinh tế số, xã hội số góp phần thu hẹp khoảng cách số giữa nông thôn với thành thị, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. |
Theo ông Lã Hoàng Trung, Giám đốc Sở TT-TT tỉnh Hậu Giang, tỉnh đã xác định 3 nhiệm vụ đột phá trong giai đoạn 2020 – 2025, trong đó nhiệm vụ thứ ba nêu rõ: “thực hiện cải cách hành chính mạnh mẽ, gắn với xây dựng chính quyền điện tử, thực hiện chuyển đổi số các ngành, lĩnh vực, phát triển đô thị thông minh kinh tế số; tăng cường ứng dụng CNTT trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội”.
Các nghị quyết cao nhất trong lộ trình thực hiện mục tiêu nhiệm vụ trên đã được tỉnh Hậu Giang ban hành, như: Nghị quyết về xây dựng Chính quyền điện tử và chuyển đổi số tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030; Đề án Chính quyền điện tử và Đô thị thông minh tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2020 – 2025, với mục tiêu là đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động của các cơ quan, đơn vị và địa phương, các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn trên địa bàn tỉnh.
Báo cáo của Sở TT-TT cho biết, năm 2021, Hậu Giang đạt được một số kết quả tích cực trong việc ứng dụng CNTT phục vụ xây dựng Chính quyền điện tử, bao gồm: triển khai Cổng Dịch vụ công trực tuyến, một cửa điện tử tại 18 sở, ngành cấp tỉnh, UBND cấp huyện và cấp xã. Số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 là 136; số dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 là 1.260; số dịch vụ công trực tuyến đã tích hợp trên Cổng dịch vụ công Quốc gia là 622; số lượng hồ sơ trực tuyến phát sinh đến ngày 30/9/2021 là 15.169 hồ sơ.
![]() |
Ông Lã Hoàng Trung - Giám đốc Sở TT-TT Hậu Giang trình bày đề tài “Nghiên cứu xây dựng mạng lưới các thiết bị IoT của tỉnh Hậu Giang phục vụ phát triển Chính quyền điện tử và đô thị thông minh”, ngày 17/9/2021. |
Hệ thống quản lý văn bản cũng được triển khai tại 458 đơn vị trong tỉnh, với hơn 5.922 người tham gia. Hệ thống thư điện tử công vụ được sử dụng cho 10.524 tài khoản cán bộ công chức, viên chức và tài khoản cho hệ thống xác thực tập trung sử dụng cho các hệ thống thông tin dùng chung của tỉnh. Ứng dụng di động Hậu Giang (Hậu Giang App) cũng có số lượng lớn sử dụng, tải về 31.000 lượt với hơn 500 tài khoản cán bộ đăng nhập.
Cổng thông tin điện tử của tỉnh có lượt truy cập trung bình hàng ngày khá cao, 8.900 lượt. Hệ thống báo cáo kinh tế - xã hội đang được triển khai thí điểm cho các sở, ban, ngành sử dụng. Hệ thống này đã kết nối với hệ thống báo cáo của Chính phủ và đang phối hợp các sở ngành xác định bộ chỉ tiêu để chuyển dữ liệu về hệ thống báo cáo của Chính phủ.
Bên cạnh đó, Hậu Giang cũng nâng cấp hạ tầng CNTT cho các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh, mở rộng hệ thống hội nghị trực tuyến của tỉnh đến cấp xã, xây dựng và nâng cấp các nền tảng dùng chung, mở rộng, nâng cấp Cổng dịch vụ công trực tuyến…
Đối với công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, Hậu Giang đã ứng dụng nhiều giải pháp công nghệ nhằm nâng cao khả năng quản lý của cơ quan nhà nước, đồng thời thuận tiện cho người dân, như: nền tảng khai báo y tế điện tử và quản lý thông tin người ra vào Tỉnh bằng mã QR, nền tảng quản lý tiêm chủng, nền tảng hỗ trợ lấy mẫu và trả kết quả xét nghiệm theo hình thức điện tử trực tuyến, xây dựng bản đồ Covid-19 trên giao diện website và tích hợp trên trên app Hậu Giang.
Trong hoạt động giám sát, điều hành đô thị thông minh của mình, Hậu Giang tiếp tục nâng cấp, quản lý và vận hành Trung tâm Dữ liệu, Cổng Thông tin điện tử, Cổng dịch vụ công, Quản lý văn bản, Hệ thống thư điện tử công vụ, Hệ thống ứng dụng di động Hậu Giang App…; Triển khai ứng dụng nền tảng thanh toán trực tuyến quốc gia tại tỉnh Hậu Giang (PayGov), triển khai và hướng dẫn các cơ quan, đơn vị về quy trình sử dụng biên lai điện tử trên Cổng Dịch vụ công và Hệ thống Một cửa điện tử; Triển khai và hướng dẫn các cơ quan, đơn vị quy trình xử lý thanh toán thực hiện nghĩa vụ đất đai trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia… và nhiều hoạt động khác.
Với sự nỗ lực vào cuộc của chính quyền các cấp, công cuộc chuyển đổi số nền hành chính trên cả nước nói chung và ở Hậu Giang nói riêng sẽ góp phần đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng suất hiệu quả của cơ quan hành chính nhà nước, giúp chính quyền các cấp có đủ năng lực để vận hành nền kinh tế số, xã hội số, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh và hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho người dân.
H.S
" alt=""/>Hậu Giang đẩy mạnh cải cách hành chính, nỗ lực chuyển đổi sốBước sang làn sóng thứ 2 của dịch Covid-19 tại Việt Nam, tác dụng hỗ trợ truy vết những người tiếp xúc gần với người nhiễm, nghi nhiễm Covid-19 đã được chứng minh trên thực tế.
Với sự ra quân quyết liệt, đồng loạt của các cơ quan, đơn vị từ trung ương đến địa phương trong việc vận động người dân cài Bluezone, theo số liệu thống kê của Cục Tin học hóa, tính đến ngày 13/9, tổng số lượt cài đặt ứng dụng Bluezone trên toàn quốc đã là 22,7 triệu.
Top 5 địa phương có tỷ lệ người dân cài Bluezone trên tổng số smartphone cao nhất lần lượt là Đà Nẵng, Quảng Trị, Hải Dương, Quảng Ninh và Thừa Thiên Huế.
Đặc biệt, trong đợt dịch thứ hai này, hệ thống hỗ trợ truy vết bằng Bluezone đã bước đầu phát huy hiệu quả. thu được những kết quả bước đầu. Cụ thể, từ ngày 12/8 đến ngày 12/9, hệ thống đã truy vết được 1.920 trường hợp F1, F2 để bổ sung cho danh sách truy vết truyền thống bằng biện pháp điều tra dịch tễ. Trong đó, đáng kể nhất là 1.035 trường hợp truy vết được ở Hải Dương, 400 trường hợp ở Đà Nẵng, 245 trường hợp ở Quảng Nam.
Tỷ lệ số lượng bệnh nhân Covid-19 có cài và sử dụng Bluezone chiếm khoảng 24% tổng số bệnh nhân Covid-19 mới phát hiện. Theo nhận định đại diện Cục Tin học hóa, tỷ lệ này cũng phù hợp với tỷ lệ người cài đặt Bluezone hiện nay mới chiếm khoảng 27% dân số cả nước.
“Nếu số lượng bệnh nhân có cài và sử dụng Bluezone tăng lên thì số lượng truy vết được chắc chắc sẽ nhiều hơn, công tác truy vết sẽ càng hiệu quả, nguy cơ lây nhiễm trong cộng đồng sẽ được giảm đi”, đại diện Cục Tin học hóa chia sẻ.
Hải Dương chiếm tới hơn 50% tổng số trường hợp F1, F2 truy vết qua Bluezone
Số liệu thống kê của Cục Tin học hóa cũng đã cho thấy, mặc dù Đà Nẵng, Quảng Nam, Hà Nội là những địa phương đã xuất hiện các ca lây nhiễm Covid-19 từ cộng đồng sớm hơn và nhiều hơn, thế nhưng ứng dụng Bluezone lại phát huy tác dụng truy vết tốt nhất ở Hải Dương, với tổng số 1.035 trường hợp, chiếm 50% tổng số trường hợp Bluezone truy vết được trên cả nước.
Trao đổi với ICTnewsvề nguyên nhân đưa đến thực tế trên, Chánh Văn phòng Cục Tin hóa Lê Thu Hiền phân tích, hiệu quả đạt được tại Hải Dương là do Tỉnh ủy, UBND tỉnh này đã quyết liệt chỉ đạo triển khai cài đặt Bluezone rộng rãi trong toàn tỉnh trước khi bùng phát các ổ dịch, nhờ đó ứng dụng đã kịp thời phát huy hiệu quả.
Ngoài ra, thời gian qua, Sở TT&TT Hải Dương, CDC tỉnh Hải Dương cũng đã phối hợp rất nhanh chóng, hiệu quả với các đơn vị của Bộ TT&TT, Bộ Y tế để triển khai công tác truy vết qua ứng dụng Bluezone.
Trong khi đó, tại Đà Nẵng, dịch bùng phát sớm khi số lượng người cài Bluezone chưa nhiều, tiếp theo phải thực hiện cách ly toàn thành phố nên số lượng truy vết được qua Bluezone không lớn. Các địa phương khác tỷ lệ cài Bluezone chưa cao, nhiều bệnh nhân Covid-19cũng như người tiếp xúc gần chưa cài Bluezone, vì thế hiệu quả truy vết còn hạn chế.
Đại diện Cục Tin học hóa thông tin thêm, theo các chuyên gia dịch tễ, kể từ khi xuất hiện ca bệnh xác định đầu tiên cho đến khi dịch bệnh bùng phát trên diện rộng chúng ta có khoảng thời gian từ 2 đến 3 tuần để khống chế và kiểm soát tình hình.
“Nếu trong khoảng thời gian này, công tác truy vết, cách ly hoạt động có hiệu quả và triệt để, rất có thể chúng ta sẽ ngăn chặn được tình trạng dịch bệnh bùng phát trong cộng đồng. Vì vậy, đây mặc dù là thời gian nguy cơ, nhưng cũng được xem là thời gian vàng cho việc tăng cường truy vết và Bluezone là một giải pháp nên được ưu tiên sử dụng”, đại diện Cục Tin học hóa khuyến nghị.
Cách cài đặt Bluezone giúp cảnh báo người nghi nhiễm Covid-19