Tết đang đến gần. Nếu như người trẻ ngày nay không còn quá nhiều sự háo hức, chờ đợi thì đối với các thế hệ cha anh, Tết là một thời điểm vô cùng thiêng liêng.
Nhà văn Lê Tự (SN 1955, Hà Nội) vẫn nhớ cái cảm giáo háo hức chờ đợi mỗi dịp Tết đến từ khi ông còn là một cậu bé. Ông kể, quê ông ở Kiến An, Hải Phòng. Ngày bé, cuộc sống khó khăn nên cũng giống như nhiều người khác, ông chỉ mong đến Tết để được một miếng ăn ngon.
Ông kể tiếp, thời còn hợp tác xã (HTX), mỗi gia đình được phân công nuôi 1-2 con lợn. Sau khi lợn đủ cân nặng, tiêu chuẩn, các gia đình sẽ phải nộp lại và HTX sẽ chia lại cho người dân theo chế độ tem, phiếu. Tuy nhiên, miếng thịt ngày xưa là thứ vô cùng khan hiếm.
![]() |
Nhà văn Lê Tự |
Muốn có miếng thịt lợn đầy đặn, người ta phải chờ đến Tết. Nhưng những ngày này, các gia đình đông con cũng chỉ được chia 3, 4 lạng thịt.
"Người lớn đã vậy, trẻ con lại càng mong đến Tết. Có đứa còn đếm từng ngày đến Tết để được ăn, được mặc quần áo đẹp. Nhà tôi nghèo và đông anh em, tôi cũng chỉ mong đến Tết để được ăn.
Năm đó, tôi học lớp 6, cả tổ xã viên gần 20 người thấy các cháu trong tổ suy dinh dưỡng, gầy gò nên ai cũng băn khoăn. Nếu chờ Tết các gia đình cũng chỉ được phân 3, 4 lạng thịt. Cuối cùng, họ bàn nhau mổ trộm 1 con lợn.
Sau khi thống nhất, họ chọn địa điểm mổ lợn là nhà tôi. Nhà tôi nằm giữa cánh đồng, bao quanh nhà là những lũy tre rậm rạp. Đêm đến, mọi người mang lợn đến nhà tôi rồi đào một hố lớn dưới khóm tre.
Sau đó, họ lùa lợn xuống hầm đất, soi đèn dầu và mổ trộm. Thế là năm đó, mỗi nhà chúng tôi được thêm gần 2kg thịt.
![]() |
Mua hàng trước Tết thời bao cấp (Ảnh: Internet) |
Đó là cái Tết duy nhất thời bao cấp mà chúng tôi được ăn ngon và nhiều thịt nhất. Vì thế, tôi cứ nhớ mãi”, nhà văn kể.
Ông kể tiếp: “Sau khi tốt nghiệp đại học ở Kiev về nước, tôi có thời gian làm phiên dịch cho các kỹ sư Liên Xô (cũ) khi thi công công trình thủy điện sông Đà. Năm đó, tôi cùng một số anh em phải ở lại trực Tết. Cả đội 45 người chúng tôi quây quần nấu bánh chưng. Chúng tôi cũng được cấp một con lợn để thịt.
Khi mổ lợn, nhà bếp bê lên bộ lòng với lá gan để chuẩn bị thái, mọi người cứ nhìn nhau. Miếng gan lợn thời nay, chẳng phải món đắt giá gì thậm chí có người không bao giờ động đũa, nhưng ngày đó, miếng gan như một thứ thực phẩm quý hiếm, ai cũng muốn có phần.
Vì thế, anh đầu bếp vô cùng đau đầu. Con lợn chỉ mỗi lá gan nhưng cả đội lại có tận 45 người. Anh phải chia thế nào để không có cảnh người ăn, người nhịn?
Cuối cùng, anh nảy ra một sáng kiến. Theo đó, anh cắt ra một miếng nhỏ để riêng. Phần còn lại anh đều cắt làm 2 phần, 2 phần đó anh tiếp tục cắt làm 4... Cứ thế, cứ thế, anh cắt được 44 miếng đều tăm tắp. Cùng với miếng đầu tiên, anh bếp đã chia đủ 45 miếng gan một cách thần kì.
Sau đó, cả đội 45 người chia nhau, mỗi người gắp một miếng, không hơn không kém. Nghèo đói, thiếu thốn thế nhưng cả cái Tết vẫn cứ rộn rã tiếng cười” - nhà văn Lê Tự kể.
Nhiều năm sau này, khi kinh tế khá hơn, miếng ăn không còn là nỗi ám ảnh với những người ở thế hệ trước nhưng ông vẫn phải thừa nhận: "Tôi đã đi qua tuổi thơ, qua tuổi thanh xuân... với một cái dạ dày lúc nào cũng réo gọi. Đến giờ, mỗi khi nhìn mâm cơm có món gan, lòng tôi vẫn chưa thôi những rưng rưng, xúc động về một thời đói khổ mà vẫn ấm áp tình người".
Nhà văn, nhà báo Lê Tự (SN 1955, quê ở Kiến An, Hải Phòng). Ông là Hội viên Hội nhà văn Hà Nội. Năm 1972 ông tham gia chiến trường miền Nam. Năm 1984, ông tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Kiev, Ukraina. Từ năm 1999-2015, ông công tác tại báo Đại Đoàn Kết. Các tác phẩm tiêu biểu: Bố tôi làm mặt trận (tiểu thuyết), Thám tử ba khía và cộng sự (tiểu thuyết); Đời quân tử (tập truyện ngắn)... |
Minh Anh - Lê Phương
" alt=""/>Tết thời bao cấp: Đau đầu thái lá gan lợn thành 45 phầnTôi gặp ông ngay trước cổng chùa Tam Bảo (TP Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) vào một buổi sáng. Trên tay ông, một xấp vé số khá dày.
Trước mong muốn được biết về câu chuyện về một người phụ nữ mù bán vé số của tôi, ông gật đầu và nói: "Anh có đủ kiên nhẫn chờ tôi bán hết xấp vé số này không? Nếu được tôi sẽ kể cho nghe...".
Đám ma ở xóm nghèo
Quá trưa, tờ vé số cuối cùng trên tay ông không còn nữa. Ông nở nụ cười bước vào quán - nơi tôi đang ngồi đợi ông.
Ông bắt đầu kể: "Cách nay khá lâu, tôi không còn nhớ rõ là năm nào, trong xóm xuất hiện người phụ nữ đứng tuổi, mù lòa. Với cây gậy trong tay, bà mò mẫm từng bước hàng ngày cùng chúng tôi bán vé số chung quanh các ngôi chùa, nhưng điểm chính vẫn là chùa Tam Bảo này.
![]() |
Vũ nữ Cẩm Nhung sau khi bị tạt axit phải sống cuộc đời nghèo khổ, lang thang bán vé số. (Ảnh Internet). |
Thú thật với anh, tôi chưa từng một lần dám nhìn thẳng vào mặt bà. Bà có vóc dáng cao ráo nhưng gương mặt bà đầy những vết sẹo lồi lõm. Đôi mắt bà đã mù, có một bên bị lồi ra. Lúc mới đến, bà đắt theo một đứa con trai nhưng khoảng vài năm sau không ai thấy nó nữa...
Bà sống khép kín. Có lần trò chuyện với bà, nghe giọng nói lơ lớ, tôi mới biết bà người Bắc vào miền Nam đã lâu. Bà cứ sống như thế, một thân một mình. Ban ngày đi bán vé số, tối về nhốt kín trong phòng và ít ai biết được bà sống ra sao trong đó.
Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua. Bà vẫn lam lũ và sống lủi thủi một mình. Những lúc trái gió trở trời không đi bán được thì nằm vùi ở nhà. Có lần, những người cùng cảnh ngộ thấy vậy lo lắng không biết bà thế nào. Họ vào phòng thấy bà nằm im, người sốt cao nên vội vàng hô hoán mọi người vào giúp bà.
Sau nhiều lần như vậy, cho đến một hôm vào đầu năm 2013 bà trở bệnh rất nặng. Sự giúp đỡ của những người chung quanh chỉ có giới hạn vì ai cũng nghèo. Bà trút hơi thở cuối cùng. Chung quanh bà, không một người thân thích...".
Ông kể tiếp: "Bà mất. Những người bạn đồng cảnh ngộ như bà đã vận động quyên góp mua cho bà một chiếc áo quan rẻ tiền để tẩm liệm. Trong lúc lục lọi trong mớ hành lý của bà để lại, mọi người phát hiện một tấm hình khổ lớn đã cũ có chỗ bong tróc. Trong hình, một cô gái đôi mươi rất đẹp cạnh người đàn ông lịch lãm.
![]() |
Chùa Tam Bảo, nơi Cẩm Nhung thường lui tới vào lúc cuối đời để bán vé số. (Ảnh Internet). |
Tấm hình đã gợi cho tôi nhớ lại câu chuyện ngày xưa. Đã hơn 50 năm trôi qua, không ngờ con người ấy bây giờ lại ở cạnh chúng tôi và khi từ giã còi đời cũng chính chúng tôi tiễn bà đi. Bà là vũ nữ Cẩm Nhung, nạn nhân vụ tạt axit vì ghen tuông trong đêm 17/7/1963 tại Sài Gòn.
Bà ra đi, tài sản không còn gì. Không một người thân nào tiễn bà mà chỉ có những mảnh đời bất hạnh, vất vưởng đưa bà về nơi chín suối.
Mộ phần của bà hiện nay chắc không còn vì khi chôn chỉ là một nấm mồ đất. Năm tháng trôi qua không người thăm viếng, khói nhang, nấm mồ đất kia có lẽ đã sụt dần và không còn ai nhớ đến nữa....
Một kiếp hồng nhan
Vụ việc xảy ra đã lâu và hậu quả cuối cùng thật thê thảm. Những người có liên quan trong vụ việc không biết bây giờ họ sống ra sao, lương tâm có cắn rứt không? Đến giờ phút này vẫn chưa ai biết được điều này vì không còn ai nhắc đến nữa. Chỉ biết rằng người gây ra thảm họa cho bà Cẩm Nhung đã lui về nương chốn thiền môn để sám hối tội lỗi do mình gây ra...".
Dứt lời ông già bán vé số uống cạn ly bia, tất tả đi lấy vé bán cho ngày mai. Bên ngoài, trời đang về chiều. Câu chuyện về cô vũ nữ Cẩm Nhung cứ làm tôi day dứt.
![]() |
Khu vực Đại Thế Giới nơi trước đây có vũ trường Grand Mond. |
Cẩm Nhung sinh năm 1940, người Hà Nội. Bỏ quê hương theo gia đình di cư vào Nam năm cô vừa lên tuổi 15. Cuộc sống nơi miền đất lạ chưa kịp quen thì cha cô qua đời. Gia đình giờ đây chỉ còn lại 3 phụ nữ: mẹ, bà vú và Cẩm Nhung, gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Mẹ Cẩm Nhung một mình bươn chải để cho con có điều kiện tiếp tục việc học. Thế nhưng, lúc này Cẩm Nhung đã trổ mã như một thiếu nữ, tự thấy mình cần góp một chút công sức để mẹ vơi đi nhọc nhằn.
Cẩm Nhung bỏ học xin một chân phục vụ bưng bê cho một nhà hàng ca nhạc. Chính nhờ môi trường này, cô có dịp tiếp xúc với những điệu nhạc, điệu nhảy. Chẳng mấy chốc sau đó, cô trở thành gái nhảy chuyên nghiệp vừa kịp với cao trào nhảy đầm đang bộc phát mãnh liệt tại miền Nam.
Lúc này Cẩm Nhung bước vào tuổi 19. Sở hữu nhan sắc quyến rũ, cô làm say đắm biết bao chàng trai hàng đêm đến vũ trường.
Nhờ vào nhan sắc trời cho, Cẩm Nhung mạnh dạn bước chân vào thế giới đèn màu mà không cần dựa vào sự quen biết nào. Vũ trường đầu tiên Cẩm Nhung hoạt động là Grand Mond cạnh sòng bài Đại Thế Giới tại Chợ Lớn. Sau đó, sòng bài bị xóa sổ, chỉ còn lại vũ trường Grand Mond.
Grand Mond là một vũ trường lớn nhưng không thể cạnh tranh nổi với vũ trường Kim Sơn ngay trung tâm Sài Gòn. Vì thế, tháng 7/1958, Cẩm Nhung đã về đầu quân nơi đây.
Vũ Trường Kim Sơn nằm trên đường Trần Hưng Đạo. Khu vực này ngoài Kim Sơn còn có nhiều vũ trường khác nhưng khách nhảy vẫn chuộng Kim Sơn hơn, bởi nơi đây qui tụ khá nhiều vũ nữ trẻ trung, xinh đẹp.
Theo một vài tài liệu còn lưu truyền tại Kim Sơn, trước khi Cẩm Nhung về đầu quân, nơi đây đã có một gái nhảy khá xinh. Sắc đẹp của cô làm xiêu lòng nhiều chàng trai và lượng khách đeo bám không phải ít. Vậy mà khi có sự xuất hiện của Cẩm Nhung, vị trí độc tôn của cô này lập tức bị lu mờ.
Chính cô gái nhảy này đã cảnh giác Cẩm Nhung bằng một câu nói: "Nhan sắc quá đẹp, quá ăn khách đối với gái nhảy là con dao 2 lưỡi. Em phải cẩn thận trong các mối quan hệ để đề phòng những tình huống không hay".
Lời cảnh tỉnh đó đã không làm cho Cẩm Nhung chùn bước, để rồi không lâu sau đó, hậu quả thê thảm đã xảy ra. Cô bị đánh ghen bằng một ca axit sunfuric đậm đặc tàn phá nhan sắc và sức khỏe của cô.
(Còn nữa)
Trần Chánh Nghĩa
" alt=""/>Vũ nữ Cẩm NhungViệc chuẩn bị và hỗ trợ 3 con của anh Hùng đến trường cũng là cả quá trình cố gắng của các mạnh thường quân.
Trong đó, anh Võ Quốc Bình - người nhận bảo trợ tài chính cho 3 bé đến trường cho biết: “Cả 3 bé không có đủ giấy tờ để hoàn thành thủ tục, hồ sơ xin nhập học. Thậm chí, bé 2 tuổi còn chưa có giấy khai sinh, giấy chứng sinh. Tôi chủ động liên hệ với các cơ quan chức năng từ Sở Giáo dục & Đào tạo TP.HCM cho đến chính quyền địa phương”.
Sau khi nghe anh Bình trình bày về hoàn cảnh của các con anh Hùng, lãnh đạo các cơ quan chức năng đã đồng lòng, bảo lãnh cho các bé đến trường.
“Bé lớn 6 tuổi được học ở trường Tiểu học Trường Thạnh, còn 2 bé học trường mầm non Trường Thạnh. Cả hai trường đều thuộc hàng lớn nhất trong khu vực”, anh Bình chia sẻ.
Tất cả chi phí học tập, bao gồm học phí, dụng cụ học tập, quần áo… của các bé đều được anh Bình tài trợ. Trung bình mỗi tháng, anh Bình chi hơn 8 triệu đồng để lo cho các bé.
Anh Bình sẽ hỗ trợ trong năm học đầu tiên. Sau đó, tùy sự cố gắng của anh Hùng, anh Bình sẽ quyết định có đồng hành tiếp hay không.
Trong khi đó, anh Đinh Anh Tuấn cùng ngụ phường Trường Thạnh, chủ nhà tốt bụng đã tha lỗi cho anh Hùng, cũng chung tay giúp đỡ cho 4 cha con.
Hàng tháng, anh Tuấn sẽ mua thêm sữa, mì, trứng, gạo cho mấy cha con. Đồng thời, anh sẽ theo dõi sát sao, hối thúc anh Hùng đi làm, sớm ổn định cuộc sống.
Anh Hùng đã tìm được việc làm. Thế nhưng trong thời gian qua, các con anh chưa được đến trường nên anh phải ở nhà chăm sóc.
Trong ngày đầu tiên các bé đến trường, anh Bình, anh Tuấn cũng có mặt động viên và cùng anh Hùng dẫn 3 bé vào lớp học.
“Tôi thường dễ xúc động, cho nên khi thấy các cháu ngoan ngoãn đến trường, mắt cứ cay cay làm sao”, anh Bình bày tỏ.
Sau khi các bé vào lớp, anh Bình và anh Tuấn vẫn nán lại trước cổng trường, quyết định chờ các bé tan học.
Các ân nhân của cha con anh Hùng chỉ mong muốn 3 bé có tương lai tốt hơn cha mình. Hai anh lo được cho một trường hợp thất nghiệp, khó khăn thì xã hội giảm đi một gánh nặng. Cuộc đời có như thế mới tốt đẹp hơn.
Như báo VietNamNet đã thông tin, tối 17/8, trong lúc túng quẫn, anh Hùng đã lấy trộm chiếc moter máy gỗ của gia đình anh Tuấn.
Phát hiện người đã trộm tài sản của mình, anh Tuấn tìm đến nhà kẻ trộm để lấy lại tài sản. Tại đây, anh nhìn thấy anh Hùng và 3 đứa con ngủ trên tấm chiếu rách. Trước hoàn cảnh khó khăn của anh Hùng, anh Tuấn mủi lòng, không nỡ bắt tội.
Không chỉ vậy, anh Tuấn còn giúp đỡ cha con anh Hùng, cho tiền chuộc lại chiếc máy moter. Sau đó, câu chuyện được lan tỏa, các nhà hảo tâm chung tay hỗ trợ cho gia đình anh Hùng.