Không “ngại” giáo án điện tửTrường Tiểu học Thuận Hòa (TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế) năm học vừa qua, cũng giống như các cơ sở giáo dục tiểu học khác, đã thực hiện dạy học CT GDPT 2018 cho học sinh lớp 1.
Mỗi phòng học được trang bị một tivi để giáo viên thuận lợi tổ chức dạy học bằng giáo án điện tử hay ứng dụng công nghệ thông tin, giúp học sinh hứng thú học tập và dễ tiếp thu. Tổ Âm nhạc do cô Nguyễn Thị Quỳnh Như làm tổ trưởng, theo đó cũng tích cực trình chiếu hình ảnh, video để bài dạy thêm sinh động. Hoạt động này lúc đầu còn bỡ ngỡ, nhưng quá trình thực hiện nhiều, đặc biệt là sau khi thường xuyên, liên tục tự bồi dưỡng trực tuyến các nội dung về CT GDPT mới, giáo viên tự tin ứng dụng công nghệ thông tin hơn vào hầu hết bài dạy.
Ở trường Tiểu học Bản Luốc (xã Bản Luốc, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang), cô giáo Hoàng Kim Cúc cũng thường xuyên sử dụng bài giảng điện tử để dạy cho học trò lớp 1. Đó có thể là những hình ảnh động được giáo viên xây dựng trên Thư viện trực tuyến Violet hay PowerPoint để minh hoạ cho bài học môn tiếng Việt; cũng có thể là những tiết dạy bằng giáo án điện tử được chỉnh sửa từ bản điện tử của sách giáo khoa, để gần gũi và phù hợp hơn với các học sinh người dân tộc thiểu số.
Sự tiến bộ về kỹ năng sử dụng máy tính hay khai thác học liệu số này, theo cô Cúc, là nhờ những tháng ngày “vượt khó” khi tự bồi dưỡng trực tuyến 3 modul bồi dưỡng về CT GDPT 2018 thuộc Chương trình ETEP.
“Bồi dưỡng qua internet, ban đầu tôi gặp khá nhiều khó khăn do trình độ công nghệ thông tin có những hạn chế nhất định. Đôi khi quên các thao tác kỹ thuật, phải mày mò mất nhiều thời gian hoặc nhờ đồng nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, từ những lúng túng bước đầu đó, quá trình bồi dưỡng đã giúp tôi tiến bộ hơn trong kỹ năng sử dụng máy tính, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Giờ tôi có thể xây dựng các hình ảnh động trong bài giảng cho học trò lớp 1, tiếp cận được nhiều chuyên trang về giáo dục bổ ích và tham gia các cộng đồng giáo viên học tập để học hỏi nhiều điều hay, đưa vào dạy học tốt hơn”, cô Cúc nói.
 |
Giáo viên cải thiện trình độ công nghệ thông tin sau chính quá trình bồi dưỡng chương trình phổ thông mới. Ảnh minh họa. |
Cô Cúc cho rằng, dù bồi dưỡng trực tiếp hay trực tuyến thì hiệu quả tiếp nhận vẫn được quyết định bởi ý thức tự giác, tinh thần ham học hỏi của người học. Với những gì đúc rút được từ 3 modul bồi dưỡng cộng thêm sự hỗ trợ đắc lực của tổ chuyên môn, ban giám hiệu nhà trường, cô đã có năm vừa qua thành công khi giúp 35/37 học sinh người dân tộc thiểu số hoàn thành chương trình lớp 1. Trong đó, 6 em hoàn thành xuất sắc, 15 em được đánh giá “Hoàn thành tốt” chương trình.
“Các em đều mạnh dạn hơn lứa học sinh những năm trước. Trong giờ học đã chủ động, sôi nổi tham gia các hoạt động và có thể trình bày suy nghĩ của mình một cách rõ ràng, tự tin. Những học sinh hoàn thành xuất sắc chương trình lớp 1 năm nay thậm chí còn có khả năng đọc với tốc độ tương đương anh chị lớp 3, lớp 4 cùng trường. Các em có thể đọc hiểu được văn bản, kể lại được truyện chỉ sau 2-3 lần nghe và tính nhẩm nhanh mà không cần đặt tính”, cô Cúc nói.
Giảm đáng kể sổ sách trong quản lý nhà trường
Từng là giáo viên cốt cán được tham gia bồi dưỡng trực tiếp cùng giảng viên sư phạm chủ chốt, nhưng cô Nguyễn Thị Thúy (hiện là Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học-THCS Phú Sơn, huyện Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá) lại thích học trực tuyến hơn. Theo cô Thúy, việc tham gia các phòng học trực tuyến vẫn có thể trao đổi nhiều điều với cộng đồng cùng bồi dưỡng và vẫn học hỏi được nhiều điều có giá trị thực tiễn cao.
Là người trải qua nhiều lần đổi mới chương trình, sách giáo khoa những năm trước, song khi tiếp cận mô hình bồi dưỡng trực tuyến lần này, cô Thuý cũng thấy “mới lạ” và không khỏi lúng túng. Học hỏi qua bạn bè, thậm chí nhờ cả con cái làm “gia sư”, dần dần khả năng công nghệ thông tin thông qua bồi dưỡng trực tuyến của cô được cải thiện đáng kể. Giờ đây, cô giáo đã biết khai thác, tìm hiểu và sử dụng được nhiều các học liệu trên mạng, thay vì lúng túng không biết tải dữ liệu về và sử dụng ra sao, hay không biết cách nào để chuyển dữ liệu định dạng pdf thành word như ngày trước.
“Trước đây, thời khoá biểu cứ phải in ra giấy rồi phát, giờ chỉ cần một phút gửi qua email hay zalo là tới được tất cả giáo viên, phụ huynh học sinh. Các giấy tờ sổ sách liên quan cũng được giảm đáng kể. Chỉ với một chiếc máy tính, giờ tôi có thể thực hiện rất nhiều việc liên quan đến công tác quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn cho toàn trường”, vị phó hiệu trưởng nói.
Tự bồi dưỡng 3 modul trên hệ thống bồi dưỡng trực tuyến (LMS), cô Trần Thị Phương Hoa (giáo viên Trường Tiểu học Cương Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang) cho hay, mỗi lần tham gia là một lần được trải nghiệm phương pháp làm việc mới và mở mang được nhiều kiến thức và nâng dần trình độ ứng dụng công nghệ thông tin.
“Trong điều kiện dịch bệnh, không phải lúc nào giáo viên cũng có thể được làm việc trực tiếp và bắt buộc phải linh hoạt hơn trong ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học để thích ứng với thực tế. Cải thiện và nâng tầm việc sử dụng công nghệ thông tin là phần rất hữu ích giáo viên có được sau bồi dưỡng trực tuyến”, cô Hoa nói.
Hải Nguyên

Cô giáo vùng cao kể chuyện dạy tiếng Việt cho học sinh lớp 1
Sau 1 năm triển khai chương trình phổ thông mới, với việc được trau dồi từ các khoá bồi dưỡng, các giáo viên dạy lớp 1 giờ đây đã tự tin, “làm chủ” việc dạy học và kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh.
" alt=""/>Giáo viên cải thiện trình độ công nghệ thông tin sau bồi dưỡng chương trình phổ thông mới
Năm học 2021-2022, cô giáo Vũ Thị Hằng (Trường Tiểu học Lùng Tám, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang) tiếp tục được phân công dạy học sinh lớp 1 - lứa học trò thứ 2 học theo chương trình giáo dục phổ thông mới (CT GDPT 2018). Đây là một trong những giáo viên giàu kinh nghiệm, vững chuyên môn. Năm vừa qua, cô Hằng đã dạy 25 học sinh dân tộc Mông với kết quả cuối năm: 5 em hoàn thành xuất sắc, 8 em hoàn thành tốt và 12 em hoàn thành.Trong số 25 học sinh lớp cô Hằng chủ nhiệm, 13 em sinh sống ở điểm vùng cao, khi về trường còn chưa sõi tiếng phổ thông; cô nói, trò chưa hiểu được. Việc tự học và khám phá kiến thức thời gian đầu của các em khá khó khăn.
Với kinh nghiệm 6 năm dạy lớp 1, cùng tự bồi dưỡng kiến thức kỹ lưỡng qua các modul trên Hệ thống bồi dưỡng trực tuyến thuộc Chương trình ETEP của Bộ GD-ĐT, cô Hằng linh hoạt vận dụng các phương pháp để tổ chức các hoạt động dạy học sao cho phù hợp học trò vùng dân tộc thiểu số.
 |
Cô Vũ Thị Hằng, giáo viên Trường Tiểu học Lùng Tám (huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang) cùng các học trò trong lớp học |
“Thời gian đầu tôi phải dạy song ngữ cả tiếng Việt và tiếng Mông. Các phương pháp dạy học tích cực vẫn được sử dụng nhưng có chọn lọc và điều chỉnh để phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Ví dụ khi học môn tiếng Việt và sử dụng phương pháp đóng vai, tôi sẽ mời những học trò nói sõi tiếng Việt lên thực hiện trước để làm mẫu, sau đó các bạn nói kém hơn sẽ làm theo. Một thời gian như thế, cứ bạn này bảo bạn kia rồi dần dần vốn tiếng Việt của học sinh được nâng lên, các em đã hiểu và thực hiện được nhiệm vụ giáo viên yêu cầu”, cô Hằng kể.
Khi học sinh nghe nói tiếng Việt tốt hơn, cô tích cực tổ chức nhiều các hoạt động trong giờ học để các em tham gia tự chiếm lĩnh kiến thức và hình thành các năng lực, phẩm chất. Các học trò lớp 1 của cô đều được trải nghiệm những tiết học thông qua trò chơi, học nhóm-cá nhân, được tự nhận xét về mình và nhận xét bạn… Qua đó, các phẩm chất và năng lực như giao tiếp, hợp tác, ngôn ngữ… của các em được hình thành, phát triển.
Cô Hằng quan niệm rằng, lớp 1 của bất cứ chương trình nào cũng vất vả và nếu cô không vào cuộc thì trò không biết chữ, đặc biệt là học trò vùng cao. Do đó để dạy học chương trình phổ thông mới được hiệu quả, cô giáo đã chăm chỉ bồi dưỡng các modul theo Chương trình ETEP.
Cứ thế, sáng dạy ở trường, tối về nhà cô lại mở máy vào hệ thống quản lý học tập trực tuyến (LMS) để nghiên cứu tài liệu, xem video và ghi chép kỹ những nội dung cơ bản hay vấn đề tâm đắc.
Kết quả học tập của học sinh năm vừa qua đã được nhà trường và phụ huynh đánh giá cao, nhưng bản thân cô vẫn chưa thấy hài lòng. Những ngày hè trước khi vào năm học mới, cô Hằng vẫn miệt mài nghiên cứu các modul bồi dưỡng và chiêm nghiệm thực tế dạy học năm qua để rút ra bài học, kinh nghiệm cho bản thân, nhằm nâng cao chất lượng dạy học năm 2021-2022 hơn nữa.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào bài dạy
Tại Trường Tiểu học thị trấn Bảo Lạc (huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng), cô giáo Trần Thị Hương Quế cũng ứng dụng tối đa những phương pháp dạy học tích cực vào tổ chức bài dạy. Các học trò lớp 1 thường xuyên được cô tổ chức học thông qua trò chơi. Để tăng sự thoải mái, giúp học sinh hứng thú tham gia, cô để học trò tự điều hành; giáo viên chỉ đứng bên hướng dẫn, động viên.
Để học sinh dễ tiếp thu, ghi nhớ bài học, cô giáo tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin chuyển tải kiến thức trong sách giáo khoa thành những hình ảnh trực quan sinh động.
Từ thời gian đầu phải “gồng mình” dạy học sinh (chủ yếu là người dân tộc Tày, Nùng, Mông) học tiếng Việt, sau 1 năm thực hiện chương trình phổ thông mới, các học trò trong lớp cô Quế đã đọc, viết tốt. Một số em có thể viết được 4-5 câu.
Kết quả này, ngoài nỗ lực của bản thân, còn nhờ một phần không nhỏ của công tác bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình mới với một phương thức hoàn toàn mới khi giáo viên tự học thường xuyên với hỗ trợ của đội ngũ cốt cán tại địa phương.
Cô giáo cho hay, 3 modul bồi dưỡng thuộc chương trình ETEP (modul 1, 2, 3) đã giúp cô vận dụng được hiệu quả các phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh vùng cao.
Hải Nguyên

Thẩm định hơn 150 bản mẫu sách giáo khoa mới
Trong tháng 9 và tháng 10/2021, Bộ GD-ĐT tổ chức thẩm định sách giáo khoa biên soạn theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 của các khối lớp 3, 7, 10.
" alt=""/>Giáo viên “làm chủ” phương pháp dạy học phát triển năng lực