Câu 1. (2,0 điểm)
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, cơ cấu giai cấp trong xã hội VN hình thành đầy đủvới 5 giai cấp cơ bản:
Giai cấp địa chủ phong kiến: Là chỗ dựa vững chắc của Pháp, được Pháp dung dưỡng. Sauchiến tranh, giai cấp này được tăng lên về số lượng và thế lực; có sự phân hóa, xuấthiện một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước và tham gia cách mạng khicó điều kiện.
Giai cấp nông dân: Là nạn nhân chủ yếu của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai củaPháp ở Đông Dương; chiếm số đông chiếm hơn 90% dân số cả nước, bị áp bức, bóc lộtnặng nề nên họ rât yêu nước và là bạn đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân: Sau chiến tranh, giai cấp công nhân đã trưởng thành về số lượngvà chất lượng; có đầy đủ những phẩm chất của công nhân quốc tế và cũng có đặc điểmriêng và có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Giai cấp tư sản: Giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ yếu, bị nhiều tầng chèn ép của đế quốc,phong kiến và tư sản mại bản, có mâu thuẫn với đế quốc phong kiến song vì thế lực nhỏyếu nên tinh thần đấu tranh không triệt để, dễ thỏa hiệp. Giai cấp tư sản có sự phânhóa: một bộ phận tư sản mại bản và tư sản dân tộc.
Giai cấp tiểu tư sản: bao gồm nhiều tầng lớp : học sinh, sinh viên, công chức , tríthức…có cuộc sống bấp bênh, khinh rẻ; sớm tiếp thu những luồng tư tưởng mới, nhạy cảmvề chính trị, yêu nước và hăng hái cách mạng, nhưng lại bấp bênh, dễ dao động, bồngbột.
Câu 2.
1. Âm mưu và kế hoạch của Pháp – Mĩ khi bước vào Đông Xuân 10953 – 1954 là:
- Cử tướng Na-va sang làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Na-va đãphác thảo ra một kế hoạch chiến lược mang tên mình với hi vọng trong vòng 18 tháng cóthể giành lấy thắng lợi quyết định, và “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
- Kế hoạch Na-va gồm 2 bước như sau:
+ Bước 1: Từ thu đông năm 1953 đến xuân 1954: Giữ thế phòng ngự chiến lược ở chiếntrường miền Bắc, tấn công chiến lược để bình định Trung Bộ và Nam Đông Dương, giànhlấy nguồn nhân lực, vật lực; xóa bỏ vùng tự do Liên khu V, đồng thời ra sức mở rộngngụy quân tập trung, binh lực xây dựng đội quân cơ động chiến lược mạnh.
+ Bước 2: Từ thu đông năm 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiệntiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định buộc ta phải đàm phán vớinhững điều kiện có lợi cho chúng nhằm kết thúc chiến tranh.
- Biện pháp:
+Tăng thêm 12 tiểu đoàn bộ binh được rút từ Pháp, Bắc Phi và Triều Tiên để tăng cườnglực lượng cơ động chiến lược ở chiến trường Đông Dương lên tới 84 tiểu đoàn.
+ Chuyển quân từ các chiến trường khác về Đồng bằng Bắc bộ lên tới 44 tiểu đoàn cơđộng.
+ Càn quét, bình định bắt lính rồi thả thổ phỉ vào vùng tự do của ta.
2. Chủ trương của Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng
Trước tình hình trên cũng như căn cứ vào việc đánh giá đúng đắn so sánh lực lượng củata qua các chiến dịch từ năm 1950 – 1953, tháng 9 năm 1953: Hội nghị Bộ chính trịTrung ương Đảng đã họp và đề ra chủ trương kế hoạch tác chiến của ta trong Đông Xuân1953 – 1954 là: “Tập trung lực lượng mở những cuộc tấn công vào những hướng quantrọng về chiến lược mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinhlực địch, giải phóng đất đai đồng thời buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó vớita trên những vị trí xung yếu mà chúng không thể bỏ. Do phân tán binh lực mà tạo racho ta những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm những bộ phận sinh lực củachúng”.
Bộ chính trị cũng lựa chọn phương hướng chiến lược là: quyết tâm giữ vững quyền chủđộng đánh địch đồng thời phối hợp hoạt động trên phạm vi cả nước và Đông Dương. Tránhchỗ mạnh, đánh chỗ yếu nhằm điều khiển địch buộc địch phải bị động phân tán lực lượngvà đánh theo cách đánh của ta. Đường lối này thể hiện tính chủ động sáng tạo của tatrong chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954.
Câu 3 (3,0 điểm)
1. Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ trong thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ởmiền Nam Việt Nam là:
a. Âm mưu
- Để cứu vãn thất bại của chiến lược “Chiến tranh một phía”, năm 1951, Mĩ để ra chiếnlược Chiến tranh đặc biệt với âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt” nhằm chống lạicác lực lượng cách mạng và nhân dân.
- Nhanh chóng biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ.
b. Thủ đoạn
- Tăng cường viện trợ quân sự cho chính quyền Ngô Đình Diệm, tăng nhanh lực lượngquân đội Sài Gòn. Viện trợ quân sự của Mĩ tăng gấp đôi.
- Dồn dân, lập “ấp chiến lược”; sử dụng phổ biến các chiến thuật “trực thăng vận”,“thiết xa vận”.
- Thành lập Bộ chỉ huy quân sự Mĩ (MACV) ỏ Sài Gòn thay cho Đoàn cố vấn viện trợ quânsự Mĩ (MAAG) để trực tiếp chỉ huy cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
- Liên tiếp mở các cuộc hành quân, càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng
- Tiến hành hoạt động phá hoại miền Bắc, phong tỏa biên giới, vùng biển nhằm ngănchặn chi viện từ miền bắc cho miền Nam.
2. Những thắng lợi trên mặt trận quân sự của quân và dân miền Nam
- Năm 1962, quân giải phóng cùng với nhân dân đã đánh bại nhiều cuộc càn quét lớn củađịch vào chiến khu D – U Minh – Tây Ninh.
- Tháng 1 – 1963, quân dân miền Nam đã giành chiến thắng vang dội ở Ấp Bắc – Mĩ Tho.Chiến thắng này đã mở đầu cho cuộc khủng hoảng về chiến thuật và thế đi xuống củachúng và đã chứng minh quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh bại chiến lượcChiến tranh đặc biệt của Mĩ – Ngụy, và dấy lên phong trào thi đua Ấp Bắc giết giặclập công trên toàn miền Nam.
- Cuối năm 1964, ta đã giành chiến thắng lớn ở Bình Giã (Bà Rịa), loại khỏi vòngchiến đấu 1700 tên địch, bắt gần 300 tên và thu nhiều phương tiện chiến tranh. Tiếptheo Bình Giã là chiến thắng An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (BiênHòa). Chiến tranh đặc biệt đứng trước nguy cơ tan rã.
II. PHẦN RIÊNG
Câu 4a.
1. Bản chất của toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa là xu thế diễn ra trên toàn thế giới saukhi kết thúc Chiến tranh lạnh, với bản chất là “sự tăng lên mạnh mẽ những mối liênhệ, ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốcgia, các dân tộc trên thế giới”.
2. Biểu hiện
- Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế: nền kinh tế của các nướccó quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc nhau, tính quốc tế của nền kinh tế thế giới tăng.
- Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia.
- Sự sáp nhập và hợp nhất của các công ti thành những tập đoàn lớn nhất là các côngti khoa học – kĩ thuật, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong vàngoài nước.
- Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khuvự. Các tổ chức này ngày càng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết những vấnđề kinh tế chung của thế giới và khu vực.
3. Vì sao…
- Với những nước đang phát triển thì có vừa tạo thời cơ: thúc đẩy rất mạnh, nhanh củaviệc phát triển và xá hội hóa lực lượng sản xuất, đưa lại tăng trưởng cao, góp phầnchuyển biến cơ cấu kinh tế, đòi hỏi tiến hành cải cách để nâng cao sức cạnh tranh vàhiệu quả nền kinh tế.
- Thách thức: trầm trọng thêm những bất công trong xã hội; phân hóa giàu nghèo giữatừng nước và giữa các nước; làm cho mọi hoạt động và đời sống của con người kém antoàn hơn; tạo nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa, xâm phạm độc lập tự chủ.
Câu 4b.
1. Những sự kiện chính trong 10 năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai trongquá trình xác lập cục diện hai cực, hai phe
- 12/3/1947: Sự ra đời học thuyết Truman. Đây được xem là sự kiện khởi đầu cho việcxác lập cục diện hai cực.
- 6/1947: Mĩ để ra kế hoạch Mác-san của Mĩ nhằm tập hợp các nước phương Tây vào liểnminh quân sự chống Liên Xô thông qua chính sách viện trợ.
- 4/4/1949: Thành lập khối quan sự Bắc Đại Tây Dương (NATO). Đây là liên minh quân sựlớn nhất của các nước tư bản phương Tay nhằmc chống Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
- 1/1949: Liên Xô và các nước Đông Âu cũng thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế nhằmthực hiện sự hợp tác lẫn nhau giữa các nước XHCN.
- 5/1955: Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập tổ chức Hiệp ước Vacsava – 1 liênminh chính trị - quân sự mang tính phòng thủ của ácc nước XHCN châu Âu.
2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cục diện hai cực: Sự đối lập về mục tiêu vàchiến lược giữa hai cường quốc: Liên Xô và Mĩ.
Liên Xô: chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ thành quả của CNXH,đẩy mạnh PTCMTG.
Mĩ: Muốn vươn lên bá chủ thế giới, đẩy lùi PTCMTG, lo ngại sức lan tỏa của CNXH trêntoàn thế giới.
(Nguồn: Hocmai.vn)
Sinh viên tìm việc làm tại Ngày hội việc làm Trường Đại học Ngân hàng
Chật vật làm đủ nghề
Mấy năm gần đây, trong bối cảnh kinh tế suy giảm, không ít cử nhân không xin được việc làm, thậm chí nhiều người còn làm công nhân, lao động phổ thông ở các nhà hàng, quán ăn… để đủ tiền trang trải cuộc sống.
Ra trường đã được hơn 1 năm, Nguyễn Thị Thanh (quê Nghệ An) tốt nghiệp chuyên ngành văn hóa học Trường ĐH KHXH-NV TPHCM đã gửi hồ sơ đến nhiều nơi nhưng không nơi nào nhận. Thanh phải làm nhân viên bán hàng tại siêu thị và cả giúp việc nhà - những công việc chẳng liên quan gì đến kiến thức đại học.
Thanh tâm sự: “Lúc còn là SV, tôi cứ nghĩ ra trường sẽ có việc làm ngay, có thu nhập ổn định, lo cho bố mẹ và các em ở quê. Thế nhưng, ngành học của tôi lúc trước dễ dàng xin được việc nhưng bây giờ nhu cầu xã hội không cần nữa. Không muốn nặng gánh gia đình nên tôi xin làm việc lao động phổ thông, thu nhập chưa được 1,5 triệu đồng/tháng”.
Còn Thanh Nam, cử nhân loại giỏi ngành sư phạm tin học Trường Cao đẳng Nguyễn Tất Thành mơ ước khi tốt nghiệp sẽ về quê Quảng Ngãi làm thầy giáo. Nhưng khi Nam về quê nộp hồ sơ vào các trường ở quê, chờ mãi vẫn không được nhận. Cuộc sống gia đình quá khó khăn, Nam chưa biết trả nợ ngân hàng như thế nào. Nam tâm sự: “Nhà tôi thuộc diện hộ nghèo, ba mẹ vất vả lo cho tôi và các em ăn học. Bây giờ tôi tốt nghiệp vẫn chưa xin được việc. Biết ở quê xin việc gì cũng khó nên tôi đã quay lại Sài Gòn tìm cơ hội. Để có tiền thuê phòng trọ, chi phí sinh hoạt, tôi xin vào làm công nhân tại một xưởng may”.
Còn Nguyễn Minh Út (quê Bình Định) sau khi ra trường đã nhận làm nhiều việc lao động phổ thông để có tiền chữa bệnh cho mẹ. Hiện Út đang làm bán hàng tiếp thị, công việc tưởng chừng như dễ nhưng rất gian nan. Út chia sẻ: “Ra trường tôi cần kiếm việc ngay, chứ mẹ tôi đang cần tiền chữa bệnh, nhưng bây giờ học ngành luật ra không dễ xin được việc ngay. Khi đi bán hàng tiếp thị, nhiều lúc bị khách hàng quát mắng, tôi cũng phải chịu đựng để bán được hàng”.
Nỗi niềm trả nợ ngân hàng
Hầu hết các SV được xét cho vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội đều thuộc diện gia đình khó khăn, không đủ khả năng lo chi phí ăn học. Nay ra trường lại phải làm công việc lao động giản đơn, tạm bợ nên họ rất khó có điều kiện trả nợ vay. Theo quy định, đối với các chương trình đào tạo có thời gian không quá 1 năm, thời hạn trả nợ tối đa bằng 2 lần thời hạn phát tiền vay. Đối với các chương trình đào tạo khác, thời hạn trả nợ tối đa bằng thời hạn phát tiền vay. Thời hạn trả nợ được chia thành các kỳ hạn trả nợ do Ngân hàng Chính sách xã hội quy định.
Như vậy, đối với với một SV học bậc đại học 4 năm, có thể vay của ngân hàng tối đa là 40 triệu đồng, tương đương 5 triệu đồng/học kỳ (chưa tính lãi suất 0,65%/tháng). Lúc ra trường họ sẽ phải trả nợ cho ngân hàng 40 triệu đồng, trong khi chưa có việc làm thì số nợ đó quá lớn. Nếu quá thời hạn trả nợ, được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay.
Những con số ấy khiến nhiều SV hoang mang, lo lắng, không biết đến bao giờ mới trả được nợ ngân hàng. Bạn Thanh Nam tâm sự: “Các SV nghèo như chúng tôi rất vui mừng khi được vay vốn ngân hàng trang trải việc học tập. Nhưng thực sự tôi không biết làm sao để trả khoản nợ này. Nếu tôi không trả nổi, ngân hàng sẽ có biện pháp thu hồi nợ với bố mẹ ở quê. Tôi áy náy khi sau 4 năm ăn học lại tạo thêm khoản nợ cho gia đình. Thời buổi này kiếm được việc để nuôi sống bản thân đã khó, không biết lấy đâu ra để trả nợ nữa”.
Bậc cha mẹ nào cũng muốn con cái mình được ăn học nên người, cho dù khó khăn đến mấy cũng gắng lo cho con. Và sinh viên nào ra trường cũng ước mong có một công việc ổn định, lo cho cuộc sống. Để người mới tốt nghiệp đại học phải vất vả kiếm sống trái nghề, làm lao động giản đơn xoay xở kiếm sống trả nợ là sự lãng phí lớn về chất xám. Rất cần biện pháp đồng bộ cho việc giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong bối cảnh kinh tế suy giảm. Trước hết cần có sự phối hợp giữa các bên: đơn vị đào tạo - doanh nghiệp - người lao động.
Bên cạnh đó, ngành LĐTB-XH nên cập nhật thông tin thị trường lao động để giúp các nhà đào tạo, nhà tuyển dụng và người lao động nắm bắt để cùng phối hợp vận hành một cách nhịp nhàng và đồng bộ. Những trường hợp người vay gặp tình cảnh thực sự khó khăn, Ngân hàng Chính sách xã hội nên có chính sách gia hạn trả nợ.
(TheoPhan Anh/ Sài Gòn Giải Phóng)
" alt=""/>Sinh viên ra trường chật vật trả nợ ngân hàng